KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951) đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách... Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991), Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4 – 2001) một lần nữa khẳng định lại điều này. Đây là một sự tổng kết sâu sắc, bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta và là một quyết định quan trọng có ý nghĩa lịch sử, đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta, tình cảm nguyện vọng của toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta.
I. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
...Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(1).
Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
II. Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Điều kiện lịch sử- xã hội, gia đình, thời đại:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan, đáp ứng những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay.
a. Điều kiện lịch sử.
- Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược. Các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp liên tục nổi lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực,... ở Nam bộ; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc. Tuy nhiên, do chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng, dựa trên ý thức hệ phong kiến, nên đều thất bại.
- Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hóa, tầng lớp tiểu tư sản và mầm mống của giai cấp tư bản bắt đầu xuất hiện, ảnh hưởng của cuộc vận động cải cách của của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc tác động vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... do các sĩ phu phong kiến có tư tưởng duy tân truyền bá và dẫn dắt, nhưng do bất cập trước lịch sử, nên không tránh khỏi thật bại.
- Những năm đầu thế kỷ XX thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta. Trường Đông Kinh Nghĩa thục bị đóng cửa (tháng 12- 1907; cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung bị đàn áp (tháng 4 – 1908); vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại và bị tàn sát (tháng 6-1908); căn cứ nghĩa quân Yên Thế bị bao vây và đánh phá (tháng 01 – 1909); phong trào Đông Du bị tan rã, Phan bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi nước Nhật (tháng 02-1909); các lãnh tụ của phong trào Duy Tân trung kỳ, người bị lên máy chém (Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi..), người bị đày ra Côn Đảo (Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn...). Tình hình đó cho thấy, phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi phải đi theo một con đường cách mạng mới.
b. Quê hương, gia đình.
- Quê hương.
Nghệ Tĩnh, quê hương của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm. Nơi đây đã nuôi dưỡng nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như Mai thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh tụ yêu nước cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu...
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương. Những tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam triều đã thôi thúc Người ra đi tìm một con đường cách mạng mới để cứu dân, cứu nước.
- Gia đình.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho giàu lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, lao động cần cù, có ý chí kiên cường vượt qua gian khổ, khó khăn để đạt được mục tiêu, chí hướng. Chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình thành tư tưởng chính trị và nhân cách của Hồ Chí Minh.
c. Thời đại.
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã trở thành một hệ thống thế giới. Các nước đế quốc vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong vòng kìm kẹp thuộc địa của chúng.
- Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sang thế kỷ XX đã không còn là hành động riêng rẽ của mỗi nước chống lại sự xâm lược và thống trị của chủ nghĩa đế quốc, mà trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa gắn với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế chống giai cấp tư sản ở chính quốc.
- Khi còn ở trong nước, Hồ Chí Minh tuy chưa nhận thức được đặc điểm của thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử của đất nước mình Người đã thấy rõ con đường của các bậc cha anh không đem lại kết quả, phải đi tìm một con đường mới. Trong khoảng 10 năm, Hồ Chí Minh đã vượt ba đại dương, bốn châu lục, đặt chân lên khoảng gần 30 nước. Nhờ đó, Người đã hiểu được bản chất chung của chủ nghĩa đế quốc và hoàn cảnh chung của các nước thuộc địa trên thế giới.
- Cuối những năm 20 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng trong phong trào công nhân châu Âu diễn ra ngày càng thêm sâu sắc, dẫn đến sự phân liệt trong nội bộ các đảng xã hội Dân chủ thuộc Quốc tế II. Một số đảng bị phân hóa. Phái tả trong các đảng tách ra, thành lập các Đảng cộng sản. Tháng 3 – 1919, Lênin thành lập Quốc tế III- Quốc tế cộng sản, đưa phong trào cộng sản thoát khỏi chủ nghĩa cải lương, theo đuôi các chính quyền tư sản của các đảng xã hội. Tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin và các văn kiện Đại hội II Quốc tế Cộng sản đánh dấu sự khẳng định về mặt lý luận việc thực hiện mối quan hệ hữu cơ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc trên tế giới.
2. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt đẹp và cao quý.
- Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa – tinh thần việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó.
- Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái. Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp – xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung trong bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
- Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh thầ lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của truyền thống lạc quan đó.
- Thứ tư, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Người việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã được hấp thụ môt nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài, Người có thể viết văn Anh, văn Pháp sắc sảo như một nhà báo phương Tây thực thụ, nhưng khi có nhu cầu “tự bạch” thì Người làm thơ bằng chữ Hán. Chính điều đó tạo điều kiện cho Người tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại và làm nên nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh, một con người biểu tượng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông – Tây.
- Tư tưởng văn hóa phương Đông.
+ Nho giáo. Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhưng nho giáo cũng có nhiều yếu tố tích cực, nên có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử. Đó là triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý tưởng về một xã hội bình trị; triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp phần đề cao văn hóa, lễ giáo, đề cao tinh thần hiếu học.
Hồ Chí Minh đã khai thác nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại” (2).
+ Phật giáo. Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam khá sớm. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động, cách ứng xử của con người Việt Nam.
Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lười biếng.
Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã hình thành nênThiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc.
Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư tưởng phương Đôngnhư Lão tử, Mặc tử, Quản tử... Khi đã trở thành người mácxít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Người.
- Tư tưởng và văn hóa phương Tây.
+ Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Đông Ba rồi vào Trường Quốc học Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hóa Pháp. Đặc biệt, Người rất ham mê môn lịch sử, và say sưa tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789.
+ Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở New York, làm thuê ở Bruclin và thường đến thăm khu Haclem của người da đen. Người thường suy nghĩ về tự do, độc lập, quyền sống của con người... được ghi trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ.
+ Đến Pháp, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng như tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ, khế ước xã hội của Rútxô... Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của Người.
+ Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ trong cách sinh hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg), trong sinh hoạt chính trị của Đảng xã hội Pháp.
Tóm lại, nhờ sự thông minh, óc quan sát, ham học hỏi và được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp, trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, của văn hóa Đông, Tây, từ tầm cao củ tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
c. Chủ nghĩa Mác – Lênin, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân tộc và thời đại đã đưa Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ người yêu tước trở thành người cộng sản. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin Hồ Chí Minh đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư tưởng – văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin, những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận mác – Lênin.
- Sở dĩ Hồ Chí Minh đã lựa chọn các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên một loạt luận điểm cơ bản hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh có nguyên nhân sâu xa là:
+ Khi đi tìm đường cứu nước, ở tuổi 20, Hồ Chí Minh đã có một vốn học vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Nhờ vậy Người quan sát, phân tích, tổng kết một cách độc lập tự chủ và sáng tạo; không rơi vào sao chép, giáo điều, rập khuôn; tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam.Chính Người đã viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin ,tin theo Quốc tế III”(3). Nhờ Lênin, người đã tìm thấy “Con đường giải phóng chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn.
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức mácxít, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
- Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong nghiên cứu, tìm hiểu.
- Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế.
- Đó là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Chính những phẩm chất cá nhân cao đẹp đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình.
3. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của người.
a. Giai đạon hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng (từ 1890-1911).
Trong thời trẻ, với những đặc điểm quê hương, gia đình và môi trường sống, Hồ Chí Minh đã tích lũy được những hiểu biết và phẩm chất tiêu biểu sau:
- Truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc.
- Vốn văn hóa dân tộc và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây.
- Hình thành hoài bão cứu dân, cứu nước khi chứng kiến cuộc sống khổ cực, điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh.
b. Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm (1911-1920).
Đây là giai đoạn bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã:
- Tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
- Tiếp xúc với Luận cương của V.I.Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Đứng hẳn về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp.
Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản.
c. Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam (1921 – 1930).
- Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Le Paria nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào các nước thuộc địa.
- Hồ Chí Minh sang Mátxcơva dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu vào Đoàn chủ tịch của Hội giữa năm 1923. Sau đó, Người tiếp tục tham dự đại hội V Quốc tế Cộng sản và Đại hội các đoàn thể quần chúng khác: Quốc tế thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế công hội đỏ...
- Hồ Chí Minh về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, raBáo thanh niên, mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động cuối năm 1924.
Tháng 02- 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Các văn kiện này, cùng với hai tác phẩm Người hoàn thành và xuất bản trước đó là Bản án chế độc thực dân Pháp (1925) và Đường Kách mệnh (1927), đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng của Việt Nam.
d. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định của cách mạng Việt Nam (1930-1941).
- Do không nắm được tình hình thực tế các thuộc địa ở phương Đông và Việt Nam, lại bị chi phối bởi quan điểm “tả” khuynh, tại Đại hội VI (năm 1928), Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng. Hội nghị Trung ương tháng 10 – 1930 của Đảng ta, theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, cũng ra “Án nghị quyết” thu hồi chánh cương vắn tắt và sách lược vắn tắt, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời gian đó Hồ Chí Minh tiếp tục tham gia các hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, kiên định quan điểm của mình.
- Đại hội VII Quốc tế cộng sản (năm 1935) đã có sự tự phê bình về khuynh hướng “tả”, cô độc, biệt phái, bỏ rơi mất ngọn cờ dân tộc và dân chủ trong phong trào cộng sản. Để cho các đảng tư sản, tiểu tư sản và phát xít nắm lấy mà chống phá cách mạng. Đại hội có sự chuyển hướng về sách lược, chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít.
- Năm 1936, Đảng ta đề ra “chiến sách” mới, phê phán những biểu hiện “tả” khuynh, cô độc, biệt phái trước đây. Trên thực tế, từ đây đảng đã trở lại với Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắtcủa Hồ Chí Minh.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1939 khẳng định rõ: “đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”(4).
Những diễn biến của quá trình này đã phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh.
đ. Giai đoạn phát triển và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh (1941 – 1969).
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5 – 1941), đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, tạm thời gác khẩu hiệu cách mạng điền địa, xóa bỏ vấn đề Liên bang Đông Dương, lập ra mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở công nông liên minh. Nhờ đường lối đúng đắn đó, sau bốn năm, Đảng lãnh đạo cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và nhân dân ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ chí Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: về đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh; về xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền; về xây dựng Nhà nước kiểu mới - của dân, do dân, vì dân; về củng cố và tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế...
- Trước khi qua đời (ngày 02-9-1969), Hồ Chí Minh để lại Di chúc thiêng liêng gửi gắm trong đó những tinh hoa của tư tưởng, đạo đức, tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có, đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại. Di chúc đã tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân tộc ta sau khi kháng chiến thắng lợi.
- Đảng ta và nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn di sản tinh thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực soi sáng và thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển.
Những biến động chính trị to lớn trên thế giới diễn ra trong hơn mười năm qua vừa kiểm chứng, vừa khẳng định tính khoa học, đúng đắn, tính cách mạng, sáng tạo, giá trị dân tộc và ý nghĩa quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh.
(1) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83-83.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr.46.
(4) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Cính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr.539.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC,
GIẢI PHÓNG GIAI CẤP, GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong lịch sử hànng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã nhiều lần phải đương đầu với kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp bội và từ thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm, đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm và bài học quý báu. Trí tuệ đánh giặc, giữ nước là một trong những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam.
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hành trang truyền thống, bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc. Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm hiểu thêm tư tưởng của một số nhà yêu nước lỗi lạc trên thế giới, nâng lên tầm cao mới của thời đại, gắn quyện thành tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
I. Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1. Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
- Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử. Từ những hình thức cộng đồng thị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành nên các cộng đồng dân tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc trở thành vấn đề thời đại.
- Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Thấm đượm tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư tưởng Hồ Chí Minh cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập...”(1). Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp, Người hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và quyền tự do.
- Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội nghị hòa bình Vécxây một bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã không được dư luận chú ý đến. Người rút ra bài học: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”(2).
- Trong Chánh cương vắn tắt cũng như trong Lời kêu gọi sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
“a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc lập”(3)
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”(4). Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: “Dù có phải đối cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập!”....
- Cách mạng Tháng Tám thành công, người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước quốc dân đồng bào và thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4).
- Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “... thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(2).
- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, mở rộng chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại:“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người không chỉ được tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
2. Kết hợp nhuần nhuyển dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cần được tiến hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời đại cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo Người, chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
- Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường của cách mạng vô sản. Người viết rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó,... thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam”(5).
- Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số đảng cộng sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa. Người đưa ra dư luận điểm: các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
- Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở những luận điểm sau đây:
+ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương Đông, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”(6); “Người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”(7). Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnhhành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”(8).
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi gặp được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nói về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”(4).
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”(5).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.
+ Độc lập cho dân tộc mình đồg thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Ngay từ năm 1941, trên đất Anh, Người nói: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Người đã nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
+ Giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của con người.
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ thương nước, thương nòi, Hồ Chí Minh luôn luôn gắn liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Người lựa chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô sản chính vì cách mạng vô sản không chỉ giải phóng giai cấp công nhân mà còn giải phóng mọi giai cấp và tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp. Người nói: giành độc lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “làm cho dân giàu, nước mạnh”,... “làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”.
Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Khi chưa giành được độc lập, Người thể hiện ý chí độc lập bằng câu nói“dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”. Nhưng sau đó Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân khôn được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(9). Do đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí minh viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc,... đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(2).
Như vậy, tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người luôn luôn gắn chặt, hòa quyện với nhau trong ttư tưởng Hồ Chí minh.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể tóm tắt thành một hệ thống các luận điểm như sau:
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo con đường của cách mạng vô sản.
- Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là cách mạng vô sản.
- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công”(10)
- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(2).
- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông.
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc việc của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng định cái cốt của nó là công – nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”(11).
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.
- Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp nhân dân vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểuđịa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung...(12)
- Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”(13). Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”(14).
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”(15); “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”(16), nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn đằn đuôi”(6).
- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”(6).
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
- Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”(17).
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự phân tích vai trò của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của chính quyền thực dân Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.
- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương.. mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành được chính quyền trong cả nước.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
(1) T.Lan: vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.15.
(2) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Nà Nội,1986, tr.31.
(3) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.3, tr.1, 198.
(4) (2) Sđd, t.4, tr.4, 480.
(6), (2) ,(3) Sđd, t.1, tr.466,467.
(8) . Sđd, t.10, tr.128.
(9), (2) . Sđd, t.4, tr.56, 161.
(10), (2) . Sđd, t.2, tr.267-268.
(15), (5),(6) . Sđd, t.1, tr.273, 274.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, KẾT HỢP
SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
I. Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
1. Vượt qua tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến, tư sản.
- Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự bất cập của tư tưởng yêu nước trong khuôn khổ ý thức hệ phong kiến: “trung quân, ái quốc”, chống Pháp giúp vua (cần vương), để đi đến quan niệm mới: dân là dân nước, nước là nước dân.
- Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được nguyên nhân hất bại của chủ trương cứu nước dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, Nhật Bản, những nước “cùng máu đỏ da vàng”, do Phan bội Châu và các chí sĩ yêu nước trong “Phong trào Đông Du” tiến hành.
Đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản của Trung Quốc trong Cách mạng Tân Hợi (năm 1911), tập trung ở chủ nghĩa Tam dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của Tôn Trung Sơn. Người đã rất kính trọng Tôn Dật Tiên, sau này người đã chắt lọc những nhân tố hợp lý, những quan điểm tiến bộ của Tôn Trung Sơn. Nhưng qua việc quyết định ra đi tìm đường cứu nước bằng cách đến nước Pháp, đến phương Tây, cái nôi của chủ nghĩa tư bản, chứng tỏ Người chưa tin vào tư tưởng yêu nước và con đường cứu nước đó.
2. Bước ngoặt lớn khi Hồ Chí Minh đọc sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lê.
Từ đây Người nhận thức được sâu sắc vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới được mở ra sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mười: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải đặt trong quỹ đạo của cách mạng vô sản. Người đã chỉ ra: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải tiến hành cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước, cứu dân. Đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩ xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng bước với phong trào cách mạng vô sản thế giới....
3. Từ “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” đến độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Nghiên cứu Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin: bình đẳng, tự quyết, đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn nhất là dựa trên lập trường cách mạng vô sản. Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Độc lập dân tộc đòi hỏi trước hết phải bảo đảm cho dân tộc đó quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa.
- Độc lập dân tộc phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; con người được phát triển toàn diện, có năng lực làm chủ.
- Độc lập dân tộc đói hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần.
- Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành cái ác, của những sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật của thời đại, đáp ứng khát vọng gàn đời của nhân dân ta là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
a. Cơ sở hình thành tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam. Hồ Chí Minh đã từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phương đông qua “thuyết đại đồng” của Nho giáo... Sau khi ra nước ngoài khảo sát các cuộc cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong chủ nghĩa Mác – Lênin lý tưởng về một xã hội nhân đạo trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do cho tất cả mọi người”. Khi đến nước Nga, Người đã thấy “Chính sách kinh tế mới” của Lênin và những thành tựu bước đầu của nhân dân Xô Viết trên con đường xây dựng một chế độ xã hội mới.
Đó là những cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc. Người đã tìm thấy trong học thuyết khoa học và cách mạng của Mác con đường chân chính để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng loài người. Người đã viết: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế gíơi”(1).
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức. Theo Hồ Chí Minh “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”(2). Từ đó, Người tin tưởng cổ vũ “Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”(3).
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng dân, khoan dung, hòa mục để hòa đồng. Văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng trí thức, hiến tài.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang trong bản thân nó bản chất nhân văn và văn hóa; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt văn hóa và giải phóng con người.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
- Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
c. Về động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, trong đó bao trùm lên tất cả là độg lực con người, trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá nhân.
- Phát huy sức mạnh đoàn kêt của cộng đồng dân tộc - động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
- Phát huy sức mạnh của con người được giải phóng, được làm chủ. Để phát huy sức mạnh này phải tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người; phát huy động lực chính trị, tinh thần, đạo đức, truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã hội...
- Khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
+ Phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm. Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”.
+ Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, “bạn đồng minh của thực dân phong kiến”, vì “Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”(3).
+ Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng không chịu học tập cái mới,.... Đó là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau... Có nước thì đi thẳng lên con đường chủ nghĩa xã hội,... có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội”(4). Hồ Chí Minh đã chỉ ra hai phương thức quá độ chủ yếu: phương thức quá độ trực tiếp (từ chủ nghĩa tư bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội) và phương thức quá độ gián tiếp (từ nghèo nàn, lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa, qua dân chủ nhân dân đi lên chủ nghĩa xã hội).
- Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhưng bao trùm, “to nhất” là đặc điểm “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đạon phát triển tư bản chủ nghĩa”(5).
- Về độ dài và thời kỳ quá độ, Người nói “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”(6).
- Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “...phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội..., có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(7).
- Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải:
+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước.
+ Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Về bước đi của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”(8), “phải làm dần dần”, “không thể một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ... đi bước vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần”.
- Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Người luôn luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
1. Bối cảnh thời đại và sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
a. Bối cảnh thời đại.
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, làm nảy sinh một trong những mâu thuẫn cơ bản của thời đại: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa.
- Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự ra đời của Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới tạo ra mâi thuẫn cơ bản mới của thời đại: giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội và mở đầu cho thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
- Sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, bùng nổ các cuộc chiến tranh đế quốc.
- Chủ nghĩa tư bản tăng cường bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân chính quốc, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng tăng lên trên thế giới.
- Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những bước phát triển mới trong sự nghiệp phát triển của kinh tế, chính trị, xã hội, đặt ra nhiều vấn đề mới trong quan hệ quốc tế. Nói về khoa học kỹ thuật, từ năm 1951 Hồ Chí Minh đã nói “Năm mươi năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và quan trọng hợn nhiều thế kỷ trước cộng lại về khoa học kỹ thuật”(9).
b. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
- Điểm xuất phát để ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là nhận thức rõ và có niềm tin mạnh liệt vào sức mạnh của dân tộc. Đó là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước; tinh thần đoàn kết; ý chí độc lập, tự lực, tư cường, truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do.
+ Hồ Chí Minh là người đã nói công khai về chủ nghĩa dân tộc. Người viết “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối... Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1971”(10).
+ Chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân ta, đồng thời cũng là của nhân dân các nước thuộc địa đấu tranh với chủ nghĩa thực dân giảnh độc lập, tự do cho dân tộc.
- Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh của thời đại được hình thành từng bước, thông qua hoạt động thực tiễn và được tổng kết thành lý luận.
+ Ra đi tìm đường cứu nước với thân phận người lao động, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra mối tương đồng giữa các dân tộc bị áp bức: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”(11). Vì vậy từ rất sớm, người đã kêu gọi: “Vì nền hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”(2).
+ Kảo sát chủ nghĩa đế quốc ngay tại sào huyệt của nó, Hồ Chí Minh đã phát hiện và chỉ ra rằng: “cả công nhân ở chính quốc lẫn binh lính ở thuộc địa,... họ đều là anh em cùng một giai cấp và khi tới lúc phải chiến đấu, thì cả hai bên đều phải cùng đánh bọn chủ chung của mình...”(3)
+ Sau khi tiếp cận với Luận cương của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó “một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”. Đó là bước chuyển lịch sử, từ người yêu nước thành người cộng sản, nâng cao nhận thức của Người về sức mạnh của thời đại: đó là sức mạnh của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản, sức mạnh kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sức mạnh đoàn kết quốc tế.
+ Từ nhận thức trên, Hồ Chí Minh đi vào tổ chức và hoạt động. Người thành lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pháp, viết báo Le Paria; tích cực tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức; sát cách chiến đấu cùng những người cộng sản và nhân dân Trung Quốc, coi “giúp bạn là tự giúp mình”....
+ Cùng với sự phát triển của lịch sử và thời đại, Hồ Chí Minh bổ sung thêm sức mạnh của thời đại những nhân tố mới, đó là: sự hình thành và phát triển và sức mạnh đoàn kết trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành một nhân tố mới trong sức mạnh của thời đại.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
a. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó cách mạng vô sản trên thế giới.
- Gặp Luận cương của Lênin, theo Quốc tế II (Quốc tế cộng sản), Hồ Chí Minh viết: “Công cuộc giải phóng các nước và của các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản.
Do đó mà trước hết nảy ra khả năng và sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế quốc để thắng kẻ thù chung”(12).
- Về cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”(13).
+ Người đã kiến nghị với ban phương Đông quuốc tế Cộng sản: “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”(3).
b. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
- Hồ Chí Minh nói: “Đảng lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Người nhắc nhở: “Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế(14).
- Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục nhân dân ta phân biệt rõ sự khác nhau giữa bọn thực dân, đế quốc với nhân dân lao động, yêu công lý và hòa bình ở các nước đế quốc.
- Kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Người vẫn yêu mến và đề cao văn hóa Pháp, ca ngợi truyền thống đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân Mỹ.
- Sau khi giành được độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, nội dung mới của kết hợp lòng yêu nước với tinh thần quốc tế là phải phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, kết hợp lòng yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò đoàn kết quốc tế, đoàn kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Người chăm lo bảo vệ sự đoàn kết thống nhất giữa các nước xã hội chủ nghĩa, giữa các đảng cộng sản anh em. Khi trong phong trào có sự chia rẽ, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để khôi phục sự đoàn kết quốc tế trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
c. Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
- Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh coi nguồn lực bên trong giữ vai trò quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, nó chỉ phát huy sức mạnh thông qua nguồn lực bên trong. Người nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mạnh là chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình”; “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(15).
- Muốn tranh thủ sức mạnh của thời đại phải có đường lối đúng đắn, phát huy độc lập tự chủ, kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân tộc mình với mục tiêu của thời đại: hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh đã thực hiện nhất quán đường lối độc lập tự chủ, vì vậy mà đã tranh thủ được sự giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc, khi hai nước có bất đồng sâu sắc, góp phần vào sự hàn gắn sự rạn nứt trong phong trào cộng sản quốc tế.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn là tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình, “Phải coi cuộc đấu tranh của bạn cũng như cuộc đấu tranh của ta..., giúp bạn là tự giúp mình”.
d. Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàg làm bạn với tất cả các nước dân chủ.
- Trên con đường đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân và cách mạng Việt Nam với nhân dân và cách mạng thế giới.
- Sau khi giành được độc lập, Người đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”(16); “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”(3).
- Đối với nước Pháp, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn”(17).
- Với các nhà tư bản, Người nói: Bất kỳ nước nào (gồm cả nước Pháp) thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm lợi cho cả hai bên thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh, còn nếu mong đưa tư bản đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam cương quyết cự tuyệt.
- Hồ Chí Minh đã dành ưu tiên cho mối quan hệ với các nước láng giềng gần gũi trong khu vực, nhất là các nước Lào, Campuchia cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung.
- Đối với Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã bằng những hoạt động liên tục, không mệt mỏi để xây đắp mối quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
- Hồ Chí Minh coi trọng thiết lập mối quan hệ hữu nghị với các nước trong khu vực và trên thế giới có chế độ chính trị khác nhau. Người đã đi thăm Ấn Độ, Mianma, Inđônêxia, nhiều nước khác nhau, góp phần xây dựng và phát triển sự đoàn kết các nước thuộc thế giới thứ ba, nâng cao uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Như vậy, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế, từ niềm tin vào sức mạnh của dân tộc đi đến nhận thức đầy đủ về sức mạnh của thời đại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam mà còn là chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng sản quốc tế, lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.12, tr.474.
(2), (3). Sđd, t.9, tr.291, 293.
(10) .Sđd, t.1, tr.466, 266, 452, 202.
(11) (2) (3) .Sđd, t.1, tr.466, 266, 452, 202.
(13), (3) . Sđd, t.2, tr.301, 124.
(16) ,(3) . Sđd, t.5, tr.30, 136, 587.
(17) . Sđd, t.5, tr.30, 136, 587.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỨC MẠNH CỦA NHÂN DÂN,
CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
I. Cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
1. Quan niệm của Hồ Chí minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
- Nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: “...Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1).
+ Đầu thế kỷ XX, nước ta đang dưới chế độ tàn bạo của thực dân Pháp, “hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa”(2), Hồ Chí Minh chỉ ra: cách mệnh thì sống, không cách mệnh thì chết...; “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”(2).
- Tập hợp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân chính của mọi thắng lợi của cách mạng.
+ Khi nói về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh nói: “Nhất là vì lực lượng của cuộc toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc.
Lực lượng toàn dâ là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”(3).
+ Khi nói về công việc “Kháng chiến kiến quốc”, Người hỏi: Ai thực hiện “Kháng chiến kiến quốc”? Và trả lời: “Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”(4).
- Sức mạnh của dâ tộc được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Về nguyên nhân thắng lợi của kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc”(5).
+ Năm 1955, Người viết: “.... với sự đoàn kết nhất trí của tất cả những người xứng đáng là con Lạc cháu Hồng - Mặt trận nhất định sẽ thành công trong việc đánh tan âm mưu của Mỹ và bè lũ tay sai của chúng và thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước Việt Nam yêu quý của chúng ta”(6).
- Trong thời đại mới, Hồ Chí Minh đặt sự đoàn kết toàn dân tộc trong mối quan hệ với đoàn kết quốc tế.
Người đã đưa ra câu nói nổi tiếng:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công” (7)
Ba từ “đoàn kết” đó là sự thể hiện: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong dân, đoàn kết quốc tế.
2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
- Truyền thống dân tộc.
+ Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt Nam đã được hình thành và củng cố qua hàng ngàn năm lịch sử..., tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi con người Việt Nam.
+ Truyền thống đó đã trở thành tình cảm tự nhiên, là triết lý nhân sinh, phép ứng xử và tư duy chính trị, cấu trúc xã hội: nhà – làng - nước, thành phép đánh giặc giữ nước: “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”.
+ Hấp thụ truyền thống của dân tộc Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Từ xưa đế nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy (yêu nước) lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn (đoàn kết), nó lướt qua mọi sự nguy hiểu, khó khăn, nó nhất chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(8).
- Từ tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhận thấy các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đều thất bại do chưa có đường lối đúng, chưa tập hợp được quần chúng. Bởi vậy, Hồ Chí Minh xác dịnh: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”(9).
- Nghiên cứu thực tiễn và kinh nghiệm của cách mạng thế giới.
+ Hồ Chí Minh nghiên cứu cách mạng tư sản, đặc biệt cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp; do tính chất không triệt để của nó mà gười cho rằng đó là các cuộc cách mạng “không đến nơi”.
+ Nghiên cứu thực tiễn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa cho tới lúc đó, Người thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn to lớn ở họ, và cả những hạn chế ở họ: chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức.
+ Nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh rút ra nhiều bài học, đặc biệt là bài học về huy động, tập hợp lực lượng công nông giành và giữ chính quyền cách mạng..., xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Hồ Chí Minh cũng chú ý nghiên cứu cách mạng Trung Quốc, Ấn Độ, tìm hiểu con đường giải phóng dân tộc của Tôn Dật Tiên, Găngđi...
- Chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Hồ Chí Minh tiếp thu những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước hết phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở to lớn để xây dựng lực lượng cách mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế....
+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, chủ yếu qua hoạt động cách mạng thực tiễn. Nhờ vậy, Người đã nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam và trong thời đại mới để hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng của Người về sức mạnh của quần chúng nhân dân và đại đoàn kết dân tộc.
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
1. Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành công.
Trong tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh có tới trên 405 bài nói và viết về đoàn kết, nổi bật là:
- Đoàn kết làm ra sức mạnh, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”(10).
- “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”(11).
- “Đoàn kết” là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”(3).
- “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
- Thành công, thành công, đại thành công”.
Đặt trong một nước thuộc địa, nghèo nàn, lạc hậu, tư tưởng đoàn kết làm nên sức mạnh của Người có ý nghĩa chiến lược, không chỉ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc mà cả trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
- Đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ngày 3-3-1951, trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:
“ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”.(12)
- Đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng.
Ngày 31-8-1963, nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: “Một là đoàn kết.Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”(13).
- Đại đoàn kết dân tộc còn là mục tiêu, mục đích nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.
Như vậy đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
- Khái niệm dân, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội hàm rất rộng, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con người Việt Nam cụ thể, cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Đó là “Mọi con dân nước Việt”, “Mỗi một con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, “già, trẻ gái trai, giàu nghèo, quý tiện”.
- Đại đoàn kết dân tộc là tập hợp được mọi người dân vào cuộc đấu tranh chung.
Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”(14).
- Muốn đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, đại độ với con người.
Hồ Chí Minh tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước. Người căn dặn: Cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
- Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng của khối liên minh công nông.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”(15). Sau này Hồ Chí Minh nêu rõ, nền tảng đại đoàn kết dân tộc là liên minh công - nông – lao động trí óc.
4. Đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Ngay từ đầu Hồ Chí Minh tập hợp mọi người vào các hội, nghiệp đoàn. Người sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Đông Dương, quy tụ người Việt Nam yêu nước cả trong và ngoài nước.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:
+ Trên nền tảng liên minh công nông (sau thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
+ Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Phương châm đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là “cầu đồng tồn dị”.
Năm 1962, tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác Mặt trận, Người nói: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân... Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”(16).
- Tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh là đoàn kết phải bao gồm đấu tranh, đấu tranh để đoàn kết tốt hơn.
Người viết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”(17).
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn luôn đấu tranh trên hai mặt trận chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
5. Đảng cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.
- Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai cấp công nhân, vừa là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vì vậy, “đại đoàn kết dân tộc... thành vấ đề máu thịt của Đảng”.
- Muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải: “Vừa là đạo đức, vừa là văn minh”; “Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”; “Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí”; “được nhân dân thừa nhận”.
Người viết: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận tập trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”(18).
- Đảng lãnh đạo Mặt trận, trước hết bằng việc xác định chính sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”(19).
- Đảng lãnh đạo Mặt trận - thực hiện theo nguyên tắc Mặt trận: hiệp thương dân chủ, phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện....
Người viết: “Phải thành thực lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và đảng viên không được tự cao tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt của mọi người....Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều”(3).
6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
- Hồ Chí Minh khẳng định: yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
- Chuẩn bị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh xác định: “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”(20).
- Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới”, “Cách mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới”. Người là hình mẫu của những hoạt động không mệt mỏi vì sự đoàn kết giai cấp công nhân, Đảng cộng sản và các dân tộc trên thế giới.
Nêu cao tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh không những được cả nước tôn vinh là lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam mà còn được thừa nhận là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cách mạng thế giới, danh nhân văn hóa nhân loại.
(2), (2) . Sđd, t.2, tr.262.
(3) . Sđd, t.4, tr.19-20.
(6) . Sđd, t.8, tr.61-62.
(9) . Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.14.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.392.
(11), (3) . Sđd, t.11, tr.22, 254.
(13) . Sđd, t.11, tr.130.
(19) , (3) . Sđd, t.10, tr.605, 606, 607.
(20) . Sđd, t.2, tr.267 – 268.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN LÀM CHỦ
CỦA NHÂN DÂN, XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
THẬT SỰ CỦA DÂN, DO DÂN,VÌ DÂN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân có liên quan đến phạm trù dân chủ. Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội rộng lớn, nhưng nội dung cơ bản là quyền lực thuộc về nhân dân. Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ nghĩa là chủ và dân làm chủ.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong lĩnh vực chính trị là dân làm chủ nhà nước. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số phản động, chống lại nhân dân. Bởi vậy, để hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân phải tìm hiểu tư tưởng về nhà nước của Người - thực thể chính trị đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
I. Cơ sở và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
1. Nghiên cứu lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh tiếp thu kinh nghiệm xây dựng Nhà nước trong lịch sử Việt Nam.
- Tư tưởng xây dựng Nhà nước Việt Nam được phản ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc: Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí...; trong những bộ luật nổi tiến như Bộ luật Hồng Đức (đời Lê)....Các bộ luật sách nói trên phản ánh những tư tưởng pháp quyền.
- Hồ Chí Minh nghiên cứu sâu sắc lịch sử Việt Nam, Người viết Việt Nam quốc sử diễn ca để giáo dục và vận động nhân dân, trong đó có nói đến các triểu đại Việt Nam trong lịch sử.
2. Hồ Chí Minh nghiên cứu các kiểu Nhà nước trong lịch sử.
- Nhà nước thực dân phong kiến.
+ Hồ Chí Minh vạch trần bản chất vô nhân đạo, chỉ rõ bản chất cái gọi là “công lý” mà thực dân, đế quốc thi hành ở các xứ “bảo hộ”.
+ Năm 1919, Hồ Chí Minh gửi đến Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của dân tộc với quyền tư do, dân chủ của nhân dân.
- Nhà nước dân chủ tư sản.
Người coi Nhà nước tư sản Mỹ, Pháp là sản phẩm của “những cuộc cách mạng không đến nơi”, vì ở đó chính quyền vẫn trong tay một số ít người - một xã hội bất bình đẳng.
- Nhà nước Xô viết.
Người gọi Nhà nước Xôviết là kết quả của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 - cuộc cách mạng “đến nơi”, đã “phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền... ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”(1).
- Hồ Chí Minh nghiên cứu vấn đề Nhà nước trong chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề nhà nước, bản chất của nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.
II. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Sau cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước cách mạng ra đời, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(2). Đó là điểm khác nhau về bản chất giữa nhà nước dân chủ nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồi tại trong lịch sử.
- Nhà nước của dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng và ngay từ đầu là: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946).
+ Quyền quyết định của nhân dân về các vấ đề liên quan đến vận mệnh quốc gia.
“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết” (Điều thứ 32 - Hiến pháp năm 1946). Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
+ “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân(3).
+ Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì pháp luật không cấm, và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
+ Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân.
+ Các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là “công bộc của dân”. Hồ Chí Minh phê hán những “vị đại diện” lầm lẫn sự uy quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh lộng quyền, cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”(4).
- Nhà nước do dân.
+ Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình.
+ Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt động.
+ Nhà nước do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Hồ Chí Minh yêu cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và sự kiểm soát của nhân dân.
- Nhà nước vì dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có Nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân.
+ Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh...”(5).
+ Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, “Người thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”.
2. Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị, luôn mang bản chất giai cấp.
+ Trả lời câu hỏi: Nhà nước của dân, do dân, vì dân có phải nhà nước siêu giai cấp không?, Hồ Chí Minh trả lời: “Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước của ta là Nhà nước của nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”(6).
+ Bản chật giai cấp của Nhàa nước ta là bản chất giai cấp công nhân và được biểu hiện ở những nội dung:
* Do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
* Định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”(2).
* Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hồ Chí Minh viết: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ... Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”(7).
- Sự thống nhất hài hòa giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: giai cấp công nhân không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp công nhân một cách triệt để.
+ Sự thống nhất này được thể hiện:
* Nhà nước dân chủ mới của ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng: là hoa, là quả của bao nhêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những con người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường.
* Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn luôn là Chính phủ đại đoàn kết dân tộc.
* Nhà nước ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả của cách mạng.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
- Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến.
+ Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết và tuyên đọc trong cuộc mít tinh lớn tại thủ đô Hà Nội ngày 2-9-1945 đã khai sinh ra Nhà nước Việt Nam mới, đồng thời đảm bảo địa vị hợp pháp của Chính phủ lâm thời.
+ Ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra với Chính phủ một trong sáu nhiệm vụ cấp bách là “Cúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộcTổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”(8) để sớm có m65t nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.
+ Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh là Chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề nội trị và ngoại giao của Nhà nước Việt Nam mới.
- Một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
+ Nhà nước dân chủ, thì dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Hồ Chí Minh viết: “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(9).
+ Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Theo Người, công bố luật chưa phải là mọi việc đã xong, phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt.
+ Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.
+ Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải lo “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(10). “Lúc dân biết và dám phê bình người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân, tức là đã đến mức dân chủ hóa khá cao”.
Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp. Người viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương “Phụng công, thủ pháp chí công, vô tư”, cho nhân dân noi theo”(11).
- Để tiến tới một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ có hiệu lực, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: cán bộ Nhà nước phải biết quản lý nhà nước. Người ký Sắc lệnh số 197 thành lập Khoa pháp lý học tại Trường đại học Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh mạnh dạn sử dụng những viên chức, quan lại đã được đào tạo nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính....
+ Hồ Chí Minh đăng báo “Tìm người tài đức”, Người viết: công việc kiến thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo dục..., rất cần nhân tài. “Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm nhiều(12). Hồ Chí Minh quan tâm tới công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ.
+ Trong việc dùng cán bộ, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải tẩy sạch óc bè phái.
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 76, ban hành Quy chế công chức – chú trọng chế độ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính - thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy, hiện đại, tinh thần công bằng, dân chủ... của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
+ Trong vấn đề cán bộ, đặc biệt là với cán bộ quản lý nhà nước, điều quan tâm thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, bởi thiếu điều này thì dù giỏi mấy cũng không dùng được.
Phát biểu trước cử tri Hà Nội (ngày 5-01-1946), Hồ Chí Minh nói: “Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên bầu”(13). Sau khi trúng cử Quốc hội, Hồ Chí Minh hứa với đồng bào: Trước sự nguy hiểm khó khăn của nước nhà, chúng tôi đi trước. Với việc giữ vững nền độc lập, chúng tôi xin đi trước.
+ Xuất phát từ nhận thức chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ và sáng suốt, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải “thân dân, gần dân, trọng dân, không được lên mặt “quan cách mạng” với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của dân”.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả.
- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
+ Theo Hồ Chí Minh, từ kinh tế tiểu nông đi tới xây dựng nhà nước pháp quyền, trước hết phải nhấn mạnh vai trò của pháp luật, khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân..., đồng thời phải đặc biệt coi trọng vấn đề giáo dục đạo đức. Hai hình thái ý thức xã hội này có thể kết hợp, bổ sung cho nhau trong thực tế trị nước. Không bao giờ được tuyệt đối hóa địa vị độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào.
+ Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luô luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật và thi hành pháp luật nghiêm minh.
* Chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo đức; và đạo đức cao nhất, theo Hồ Chí Minh là “Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”(14).
* Đi đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh nhấn mạnh kịp thời ban hành pháp luật.
Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ.
Ngày 26-01-1946, Người ký “Quốc lệnh” khép tội tham ô, trậm cắp của công vào tội tử hình.
+ Để đưa luật vào cuộc sống, Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân hãy tham gia giám sát công việc của Chính phủ. Hồ Chí Minh viết: Từ ngày thành lập Chính phủ trong nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân, phì gia.... Xin đồng bào hãy phê bình, giám sát công việc của Chính phủ. Người đòi hỏi pháp luật của ta “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(15).
- Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan liêu.
+ Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả của Nhà nước là dựa vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm quyền. Người đòi hỏi “cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”(16).
+ Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra ba thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”. Người nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Vệt gian, mật thám”(17).
+ Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên trên mặt trận. “Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”(4).
+ Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân quan trọng là bệnh quan liêu.
Người viết: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì thật trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn... thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững... Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”(5).
(6), (2) . Sđd, t.9, tr.586, 588.
(10) . Sđd, t.12, tr.223.
(12) . Sđd, t.4, tr.99, 147.
(13) . Sđd, t.4, tr.99, 147.
(15), (2) . Sđd, t.5, tr.641.
(16) (4) . Sđd, t.6, tr.490, 495.
(17) . Sđd, t.6, tr.489-490.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN,
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
Sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra trong một thời kỳ lịch sử mà cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc đang phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Chính bối cảnh lịch sử đó khiến Hồ Chí Minh dành nhiều thời gian, tâm lực nghiên cứu về quân sự. Người đã làm việc, suy nghĩ, tìm kiếm không mệt mỏi để chuẩn bị về lý luận và tổ chức cho khởi nghia vũ trang và chiến tranh cách mạng. Người đã trực tiếp biên soạn nhiều tác phẩm quân sự có giá trị lý luận và thực tiễn, bồi dưỡng kiến thức quân sự cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta ngay trong buổi đầu cách mạng.
Trong khởi nghĩa và chiến tranh, Người vạch chiến lược quân sự xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, sáng lập lực lượng vũ trang cách mạng, kết hợp tài tình các phương pháp và hình thức đấu tranh, bồi dưỡng các nhân tố cơ bản đảm bảo giành thắng lợi. Sự nghiệp quân sự của Hồ Chí Minh là cống hiến to lớn đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh bao gồm những quan điểm của Người về bạo lực, về khởi nghĩa vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân, về xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng hậu phương và nền quốc phòng toàn dân, về chỉ đạo chiến tranh và nghệ thuật quân sự ở một nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Tư tưởng quân sự ấy phản ánh quy luật phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong điều kiện Việt Nam, là sự kết hợp hài hòa và khoa học truyền thống quân sự của dân tộc ta với tinh hoa quân sự cổ, kim, Đông, Tây của loài người.Nội dung cơ bản của tư tưởng Quân sự Hồ Chí Minh là tư tưởng quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và chiến tranh nhân dân Việt Nnam trong thời đại mới.
1. Tư tưởng dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Tư tưởng bạo lực cách mạng theo quan điểm Mác – Lênin là một nội dung cơ bản của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng và tư tưởng về bạo lực cách mạng thống nhất biện chứng với tư tưởng nhân văn và hòa bình, nó cũng hoàn toàn xa lạ với các xu hướng phiêu lưu, manh động và khủng bố cá nhân.
Chủ nghĩa thực dân, tự bản thân nó, đã là “một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”(1), từ đó Người khẳng định, độc lập, tự do thật sự của các dân tộc thuộc địa chỉ có thế giành lại bằng cuộc đấu tranh của cả dân tộc, không thể cầu xin mà có được, “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình” và “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”(2).
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực bao giờ cũng phải dựa vào hai lực lượng: chính trị của toàn dân và vũ trang nhân dân, trong đó lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang.
Tư tưởng cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh hoàn toà xa lạ, đối lập với tư tưởng hiếu chiến của những kẻ xâm lược. Người tìm mọi cách ngăn chặn các cuộc xung đột vũ trang, tìm mọi cách đẩy lùi chiến tranh, có khi phải chấp nhận những nhân nhượng cần thiết, có nguyên tắc, bởi vì Người yêu nước, thương dân, quý trọng sinh mệnh con người. Ngay cả khi đang tiến hành kháng chiến, Người cũng không bỏ lỡ cơ hội tìm kiếm hòa bình, sớm kết thúc chiến tranh. Nhưng khi không có cách nào khác để tránh khỏi chiến tranh, kẻ thù độc ác và ngoan cố gây chiến tranh xâm lược, Người kiên quyết kêu gọi toàn dân tộc, toàn quân nhất tề đứng dậy chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. “Đồngbào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình... Tôi biết là nhân dân Pháp không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách... Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm”(3).
Do chúng ta phải phát động và tiến hành một cuộc chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược và bạo tàn nên Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh vai trò quyết định của chính trị trong việc vạch ra đường lối chiến lược, phát động và tập hợp quần chúng tham gia kháng chiến, xây dựng và sử dụng lực lượng, củng cố hậu phương, nâng cao trạng thái chính trị - tinh thần của nhân dân và lực lượng vũ trang. Đó là tư tưởng có tính nguyên tắc, đồng thời là một đặc trưng nổi bật trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự.
2. Tư tưởng khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang toàn dân là một đóng góp to lớn và mang tính sáng tạo sâu sắc của Hồ Chí Minh, trong đó có những nội dung chủ yếu sau:
- Khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam là khởi nghĩa vũ trang toàn dân do toàn thể dân tộc tiến hành, đó là điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của khởi nghĩa giành chính quyền. Với tư tưởng đó, Người luôn luôn kêu gọi cả dân tộc, bất cứ ai là người Vịêt Nam có lòng yêu nước phải tham gia vào việc cứu nước, vào khởi nghĩa vũ trang để giành cho được độc lập.
- Vận dụng tư tưởng Lênin về tình thế cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ ra các điều kiện của thời cơ khởi nghĩa, chỉ đạo tìm kiếm mọi cách tạo thời cơ và nắm vững thời cơ để phát động khởi nghĩa toàn dân.
- Khởi nghĩa vũ trang là phải dùng vũ khí, phải chiến thắng bằng lực lượng vũ trang, song đó lại là “cuộc chiến tranh to tát về chính trị và quân sự”, kết hợp hài hòa hai lực lượng đó, “làm đúng thì thành công, làm sai thì thất bại”.
- Khởi nghĩa từng phần đi đến tổng khởi nghĩa và khi giành được chính quyền, phải khẩn trương xây dựng chính quyền cách mạng, và đó phải là chính quyền của dân, do dân, vì dân.
3. Tư tưởng kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính.
Cuộc chiến tranh mà dân tộc chúng ta phải tiến hành vừa là chiến tranh giải phóng, vừa là chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống lại chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân và đế quốc. Từ bản chất chính nghĩa sâu sắc ấy và từ lý tưởng cao quý của cuộc chiến đấu nên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cuộc chiến tranh ấy được thể hiện bằng cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính.
- Kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc trong lịch sử giữ nước lâu dài của chúng ta, đồng thời vận dụng triệt để và sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, nhận thức sâu sắc tình yêu Tổ quốc và khát vọng độc lập tự do của nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã khẳng định một luận điểm cơ bản: kháng chiến là sự nghiệp của dân, có dân là có tất cả, khởi nghĩa toàn dân để giành độc lập cho dân tộc và chỉ có tiến hành kháng chiến toàn dân mới giữ vững được nền độc lập ấy. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự thể hiện hàm súc và đầy sức thuyết phục tư tưởng lớn của Người về quân sự, về kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đán bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”(4). Chính đường lối, tư tưởng chính trị - quân sự đúng đắn đó đã tạo khả năng động viên to lớn toàn bộ sức mạnh, nghị lực và tinh thần sáng tạo của nhân dân khi đi vào kháng chiến.
- Chiến tranh là một thách thức toàn diện đối với một đất nước, một dân tộc, một chế độ. Đối với một cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc của một dân tộc bị áp bức, nô lệ, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, không dùng toàn lực của dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được. Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, tư tưởng, văn hóa... là nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện.
Đấu tranh quân sự là phương thức chủ yếu nhất của chiến tranh. Đấu tranh chính trị là một nội dung rất cơ bản trong chiến tranh nhân dân. Phối hợp chặt chẽ và linh hoạt với hai phương thức trên là đấu tranh ngoại giao nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của thời đại. Để tạo sức mạnh nội sinh của cuộc kháng chiến, nhiệm vụ đấu tranh kinh tế, xây dựng hậu phương vững mạnh và đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa nhằm đồng thời nâng cao, tăng cừơng sức mạnh vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến là yêu cầu cao của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quố phòng toàn dân, về kháng chiến toàn diện.
- Kẻ thù bao giờ cũng có âm mưu tốc chiến, tốc thắng để đánh đổ chính quyền cách mạng và chế độ mới của chúng ta. Để chống lại âm mưu đó, Hồ Chí Minh khẳng định: Kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện của toàn dân”(5). Kháng chiến trường kỳ để vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa bồi dưỡng, phát triển lực lượng của ta, càng đánh ta càng mạnh để đánh bại từng âm mưu chiến lược của địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
“Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, dựa vào sức mình là chính” là một nội dung rất quan trọng trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Theo người, một dân tộc mà không biết tự lực cánh sinh, không biết dựa vào chính sức mình để giải phóng cho mình thì không xứng đáng được độc lập, tự do. Ngay cả khi chúng ta đã tranh thủ được sự đoàn kết quốc tế với sự giúp đỡ và ủng hộ về vật chất và tinh thần, thì tư tưởng trên của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa cực ký quan trọng của nó.
4. Nghệ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chiến tranh giải phóng của dân tộc thuộc địa chống thực dân, đế quốc lúc đầu bao giờ cũng là cuộc chiến đấu của người yếu chống kẻ mạnh. Muốn giành thắng lợi không thể chỉ dựa vào ý chí, mà phải có đường lối chiến lược đúng đắn, sáng tạo, biết tạo ra sức mạnh, càng đánh phải càng mạnh, dám đánh, quyết đánh đồng thời phải biết đánh. Biết đánh bằng nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân. Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, vấn đề nghệ thuật quân sự chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Người đã viết hàng chục tác phẩm có giá trị về nghệ thuật quân sự. Trong lĩnh vực này, Hồ Chí Minh đã học tập, vận dụng và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự của cha ông ta “lấy yếu đánh mạnh”, “lấy ít đánh nhiều”, “lấy nhỏ đánh lớn””... lên một tầm cao mới đáp ứng được những yêu cầu và thách thức mới trong một cuộc chiến tranh thời kỳ hiện đại (thế kỷ XX).
Tư tưởng trường kỳ kháng chiến của Hồ Chí Minh không đối lập với tư tưởng chiến lược tiến công, luôn giành thế chủ động, mà thống nhất biện chứng với nhau. Toàn dân trường kỳ kháng chiến, song trong nghệ thuật quân sự cụ thể lại phải luôn chủ động giành thế tiến công, đồng thời tiến công phải chắc thắng, không phiêu lưu, mạo hiểm. Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh còn là nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời, biết đánh địch bằng mưu, thắng địch bằng thế, lấy ít thắng nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông, biết tập trung ưu thế vào thời cơ quyết định để luôn luôn đánh địch trên thế mạnh. Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh còn là biết đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi quy mô, mọi thứ vũ khí, trang bị, không chỉ đánh vào quân đội có vũ khí, mà đánh thẳng vào lòng người kết hợp tác chiến với binh vận, địch vận. Và đó cò là nghệ thuật biết khởi đầu chiến tranh và biết biết kết thúc chiến tranh vào thời điểm có lợi nhất và thích hợp nhất.
5. Tư tưởng về xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân là hai lực lượng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng. Sự phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau của hai lực lượng đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng chính trị quần chúng. “Sự đồng tâm của đồng bào đúc nên bức tường đồng xung quanh Tổ quốc”. Lực lượng chính trị quần chúng là cơ sở cho đấu tranh quân sự, đồng thời đó còn là lực lượng tiến công trực tiếp đánh địch theo các phương thức và nội dung rất phong phú, linh hoạt.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích là một nội dung lớn và sáng tạo trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, việc xây dựng bản chất cách mạng, ý thức và trình độ chính trị cho lực lượng vũ trang được đặc biệt quan tâm và tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ, hệ thống. “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(6). Hồ Chí Minh đã đúc kết một truyền thống quý báu, khái quát bản chất chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân ta làtrung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, và xác định quân đội ta có ba nhiệm vụ: đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất, từ đó Người khẳng định một nguyên tắc bất dịch là sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân (ba thứ quân) và lực lượng công an nhân dân.
Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Hồ Chí Minh đã nêu lên một lụân điểm hết sức quan trọng và được diễn đạt vô cùng giản dị, cô đúc, đó là “người trước, súng sau”, nghĩa là sự thống nhất giữa người cầm vũ khúi, trong đó người cầm vũ khí đóng vai trò quyết định. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh, trình độ chính trị, có phẩm chất, đạo đức, có trình độ văn hóa, có tri thức và kỹ năng quân sự, có sức khỏe để đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ của một đội quân chiến đấu, sản xuất và công tác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự, cả chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật và hậu cần. “Tướng là kẻ giúp nước. Tướng giỏi (đủ cả: trí, tín, nhân, dũng, nghiêm) thì nước mạnh. Tường xoàng thì nước hèn”(7). Người nêu ra sáu yêu cầu cơ bản đối với người chỉ huy quân sự là “Trí - Dũng - Nhân - Tín – Liêm – Trung”.
Dưới ánh sáng của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, thực hiện một cách triệt để, trung thành và sáng tạo tư tưởng ấy với một niềm tin yêu vô hạn dành cho người Tổng tư lệnh tối cao của mình, 60 năm qua, lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển không ngừng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Có lẽ, phần thưởng cao quý nhất, độc đáo nhất dành cho lực lượng vũ trang nhân dân chính là danh hiệu “Bộ đội cụ Hồ” mà nhân dân ta đã gọi, đã trao tặng cho những người con thân yêu của mình.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Để kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, động viên sức mạnh toàn dân vào công cuộc kháng chiến cứu nước và bảo vệ Tổ quốc. Hậu phương vững chắc là một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Đối với Hồ Chí Minh, hậu phương không chỉ là sức mạnh vật chất, nguồn nhân lực mà còn là sức mạnh tinh thần, trong đó lòng dân lại là sức mạnh đặc biệt to lớn. Một nền quốc phòng toàn dân hùng mạnh với sự tham gia của tất cả các ngành, các giới... luôn luôn góp phần quyết định trong các cuộc kháng chiến của chúng ta, từ chống Pháp, đuổi Nhật đến chống Mỹ xâm lược. Nghệ thuật phát huy cao độ sức mạnh toàn dân đánh giặc với lòng dũng cảm phi thường và trí thông minh, sáng tạo tuyệt vời là một thành tựu to lớn của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống nổi.
Trong những năm vận động cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang nhân dân giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, Người nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hậu phương để tạo tiềm lực cho cuộc kháng chiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Những tư tưởng và kinh nghiệm quý báu đó đã được Hồ Chí Minh nâng cao và hoàn chỉnh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân để bảo vệ Tổ quốc. Nền quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với an ninh nhân dân mà chúng ta đang xây dựng hiện nay là kết quả của sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương, xây dựng nền quốc phòng toàn dân từ những năm chuẩn bị khởi nghĩa và ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, tất nhiên, trong một điều kiện mới và với một trình độ phát triển mới mẻ để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đất nước chúng ta, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới với những cơ hội lớn và những thách thức gay gắt. Nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc gắn bó sâu sắc với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng mà nhân dân ta dày công đấu tranh, xây dựng nên.
Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, trực tiếp tạo nên sức mạnh vô địch vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ
VĂN HÓA, KHÔNG NGỪNG NÂNG CAO ĐỜI SỐNG
VẬT CHẤT, TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN
Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước để giải phóng đồng bào, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một xã hội mới, một cuộc sống mới ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Muốn có cuộc sống mới đó, trước tiên phải giành lại độc lập cho dân tộc, kế đó phải xây dựng đất nước vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẵng có nghĩa lý gì!
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn lại: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(1).
I. Phát triển kinh tế không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân:
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có tính nguyên tắc. Đó là:
1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nước ta là một nước thuộc địa nữa phong kiến. Kinh tế rất lạc hậu và gồm nhiều thành phần phức tạp, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém. Do vậy, Người đã chỉ rõ: “... nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... có công nghiệp và nông nghệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(2).
2. Về cơ cấu kinh tế.
- Phát triển mạnh cả công công nghiệp và nông nghiệp. Người chỉ rõ: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Người giải thích rất rõ: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Người giải thích rất rõ:
Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè...) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy mới.
Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân.
- Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta.
Trong bài viết Con đường phía trước (ngày 20-01-1960), Người chỉ rõ nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Năm 1959, trong sản xuất của miền Bắc, công nghiệp chỉ mới chiếm không đầy hai phần, còn nông nghiệp và thủ công nghiệp chiếm đến tám phần. Người đặt câu hỏi: Như vậy thì làm sao cho đời sống nhân dân thật dồi dào được? Và Người đã trả lời: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách hật rộng rãi: dùng máy móc trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường.
Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu.... Đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp hóa nước nhà.
Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”(1).
3. Về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
- Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: “+Sở hữu nhà nước tức là của toàn dân.
+ Sở hữu hợp tác xã tức là sở hữ tập thể của nhân dân lao động.
+ Sở hữu của người lao động riêng lẽ.
+ Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”(2).
Người chỉ rõ mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở thành một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữ tập thể.
- Về thành phần kinh tế: trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “2) Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tề khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”(1).
Phải phát triển các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng cho kinh tế xã hội chủ nghĩa; khuyến khích kinh tế hợp tác xã với các hình thức đa dạng, nhấn mạnh các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất cho họ, hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn. Đối với các nhà công thương, họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ thì sẵn sàng cải tạo, hướng họ hợp doanh với Nhà nước để góp phần xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, hướng dẫn họ phục vụ cho quốc kế dân sinh phù hợp với kế hoạch Nhà nước.
4. Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm trong sản xuất, trong tiêu dùng, tiết kiệm vật tư, thời gian, sức lao động. Đồng thời, phải chống tham ô, lãng phí, quang liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm.
Người chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”(2).
II. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
1. Thấu hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận rõ vị trí đặc biệt quan trọng và ý nghĩa lớn lao của văn hóa.
Từ năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu ra định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(1).
Cùng với việc chỉ rõ nội hàm của văn hóa, Người phân tích và luôn nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và cơ sở hạ tầng, văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được”. Mặt khác, Người lại khẳng định nhiều lần ý nghĩa, vai trò của văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Từ cách nhìn nhận rất biện chứng rên, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời, trong quan hệ của bốn thành tố trên, Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò quyết định của chính trị và kinh tế đối với sự phát triển của văn hóa.
Khi dân tộc và đất nước còn bị nô lệ thì văn hóa cùng chung số phận nô lệ đó, vì vậy, theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính tị trước để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó, giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. “Xưa kia chính trị bị áp bức, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được”.
Khi đất nước đã được giải phóng, bước vào thời kỳ xây dựng, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, vì vậy phải xây dựng kinh tế làm cơ sở hạ tầng cho sự phát triển văn hóa “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(2).
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, gắn bó hữu cơ với cơ sở hạ tầng, vì thế, từ trong bản chất và tuân thủ quy luật chung, văn hóa ở trong kinh tế và chính trị, văn hóa không thể đứng ngoài, mà có nhiệm vụ góp phần thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân, trở thành một động lực to lớn, chủ động tác động tích cực trở lại đối với kinh tế và chính trị. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(3). nguyên lý này hoàn toàn khôg phải là sự áp đặt đối với văn hóa – văn nghệ, mà chính là bản chất xã hội của văn hóa, là một quy luật khách quan của mối quan hệ biện chứng trên.
Từ luận điểm cơ bản trên, ngay trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã rút ra một kết luận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm định hướng cho toàn bộ sự phát triển của văn hóa nước ta: Tham gia cách mạng là con đường duy nhất, là nhu cầu tất yếu của văn hóa – văn nghệ và những người hoạt động, sáng tạo trên lĩnh vực này. Rõ ràng là dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn được tự do thì phải tham gia cách mạng. Tham gia cách mạng không chỉ để đóng góp tích cực vào tiến trình và thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, mà còn vì nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân văn nghệ, vì sự tự do chân chính của văn nghệ. Kết luận hiển nhiên, giản dị đó của Hồ Chí Minh thực sự có ý nghĩa lớn lao đối với văn hóa, văn nghệ nước ta gần 60 năm qua.
2. Tính chất, đặc trưng, chức năng của nền văn hóa mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ xây dựng “một nền văn hóa mới” và chỉ rõ tính chắt, đặc trưng và chức năng chủ yếu của nền văn hóa đó.
a. Ngay sau ngày Quốc khánh 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thành lập Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc bộ. Tại buổi tiếp đại biểu của Ủy ban này ngày 7-9-1945, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Bổn phận của các ngài là lãnh đạo tư tưởng quốc dân, đấu tranh cho độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới. Từ đó, tùy theo nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta nhấn mạnh các tính chất, đặc trưng của nền văn hóa đó, và để phù hợp với tiến trình cách mạng, với kết quả tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã từng bước điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh các quan điểm cơ bản của mình. Song, tựu trung, đó là nền văn hóa bao hàm các tính chất dân tộc, hiện đại và nhân văn để tạo nên một nền văn hóa mới đa dạng và thống nhất - nền văn hóa Việt Nanm tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) của Đảng đúc kết và khẳng định.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của dân tộc Việt Nam và của nền văn hóa Việt Nam. Kế tục phẩm chất bền vững đó của văn hóa dân tộc trong quá khứ, nền văn hóa mới phải tiếp tục phát triển với những đặc trưng mới. Theo Hồ Chí Minh, đó chính là sự gắn bó mật thiết và trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là sự hài hòa giữa lý tưởng độc lập dân tộc với lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong nền văn hóa đó, trở thành nội dung cốt lõi của nó trong thời kỳ mới. Như vậy, chứa đựng trong nền văn hóa mới của chúng ta, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là những giá trị bền vững, cao quý và những tinh hoa của văn hóa và truyền thống dân tộc cùng với những giá trị mới được xây đắp và phát triển trong thời kỳ hiện đại của dân tộc ta. Có nghĩa là, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhân tố và phẩm chất hòa quyện hữu cơ trong nền văn hóa, tạo nên tổng thể giá trị của nền văn hóa mới.
Về phẩm chất dân tộc, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa mới, trước hết là nền văn hóa đó gốc rễ từ dân tộc, mang tâm hồn, diện mạo, đặc tính và cốt cách dân tộc. Đó là những giá trị bền vững và những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; dũg cảm, thông minh trong chiến đấu, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống; tình nghĩa thủy chung với người thân, bạn bè.
Trong rất nhiều bài nói, bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc nhở chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp ấy của dân tộc. Người khẳng định, văn hóa phải “lột cho hết tinh thần dân tộc”, “phát huy cốt cách dân tộc”... không chỉ ở chiều sâu của nội dung văn hóa mà còn thể hiện đậm đà trong các hình thức, phương thức biểu hiện nội dung đó.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nói giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc không đồng nghĩa với dân tộc hẹp hòi, đóng cửa, khép kín và cũng hoàn toàn xa lạ với kiểu bắt chước, học đòi, lai căng để đánh mất đi cái độc đáo, cái đặc trưng của dân tộc mình. Phải biết kế thừa, phát huy có chọn lọc những truyền thống văn hóa tốt đẹp phù hợp với những điều kiện lịch sử mới, kiên quyết phê phán và loại bỏ những tập tục lạc hậu, cổ hủ, đủ bản lĩnh để mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tốt đẹp, tiến bộ của văn hóa nhân loại, tỉnh táo chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hóa độc hại... “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam”.
b. Nền văn hóa mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, phải là một nền văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ, “hợp với tinh thần dân chủ”, mà trước hết là sự tôn trọng và yêu thương con người, góp phần cho sự phát triển toàn diện của con người, đặc biệt là bồi dưỡng nâng cao đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm phong phú, cao đẹp của con người. Đây chính là sứ mệnh, là chức năng chủ yếu của văn hóa. Trong quan niệm của mình về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh một chức năng có vị trí đặc biệt của văn hóa là bám sát và thấu hiểu cuộc sống, miêu tả và khám phá con người, bảo vệ và khẳng định, góp phần trực tiếp xây dựng con người mới đang hình thành trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ và vĩ đại vì sự ra đời và chiến thắng của xã hội mới. Thấu hiểu đặc trưng và sức mạnh riêng của văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn có niềm tin sâu sắc về khả năng của văn hóa có thể và cần phải nuôi dưỡng, xây đắp cho con người nhữg lý tưởng cao quý, những tư tưởng và tình cảm lớn, những phẩm chất tốt đẹp cho con người để giúp con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và từ đó con người có năng lực và khát vọng không ngừng hoàn thiện bản thân. Quá trình tự hoàn thiện ấy chính là quá trình con người vươn lên cái tốt đẹp, cái tiến bộ và đấu tranh với cái xấu xa, đen tối, lạc hậu. Vai trò cao quý của văn hóa, với tư cách là động lực của sự phát triển, trước hết là thông qua chức năng chủ yếu và đặc trưng này của văn hóa. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ... văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do... làm thề nào cho mỗi người dân Việt Nam từ trẻ đến già, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình đáng được hưởng.
Nói đến văn hóa là nói đến phẩm chất, đến giá trị, đồng thời cũng là nói đến trình độ của con người. Nuôi dưỡng các phẩm chất, xây đắp các giá trị tinh thần, tư tưởng, tình cảm và nâng cao trình độ dân trí là những chức năng không thể tách rời của văn hóa. Theo yêu cầu của từng thời kỳ của cuộc đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh các nhiệm vụ lớn lao trên của văn hóa. “Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định như vậy ngay khi đất nước ta kết thúc cuộc chếin tranh chống thực dân Pháp và miền Bắc bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính từ quan điểm đó mà Người luôn đòi hỏi rất cao đối với chất lượng của hoạt động văn hóa, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của con người - nhận thức, tiếp nhận, hưởng thụ văn hóa và nâng cao trình độ hiểu biết toàn diện của mình thông qua văn hóa, bằng văn hóa. Người nhắc nhở: Phong trào văn hóa có bề rộng, chưa có bề sâu, nặng về mặt giải trí mà còn nhẹ về mặt nâng cao tri thức của quần chúng. Sự nhắc nhở đó cách đây đã gần 40 năm, nhưng chúng ta thấy đó như là sự phê bình trực tiếp những thiếu sót, khuyết điểm của công tác văn hóa nước ta trong những tháng ngày gần đây nhất.
Chính do tính chất, đặc trưng và chức năng đặc biệt trên của văn hóa, theo lời dạy và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải làm mọi cách để phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa làm cho các nhân tố văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, trong mọi phương diện chính rị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương... và mọi quan hệ của con người với tự nhiên, xã hội và với chính mình..., biến văn hóa thành một nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển.
3. Văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú.
Xét về đặc trưng của lĩnh vực hoạt động tinh thần, văn hóa gồm có văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa gíao dục, văn hóa nghệ thuật, văn hóa pháp luật, văn hóa lao động, đời sống văn hóa cụ thể, văn hóa lối sống... Hồ Chí Minh đã quan tâm và có nhiều ý kiến sâu sắc về hầu hết các lĩnh vực đó của văn hóa. Xét về loại hình hoạt động cụ thể, chúng ta còn thấy Người đã đề cập và cho ý kiến chỉ đạo cụ thể từng loại hình, từ báo chí đến văn hóa nghệ thuật, từ khoa học đến giáo dục, từ đạo đức đến lối sống nếp sống, xây dựng đời sống mới, từ các hoạt động văn hóa quần chúng đến lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật chuyên nghiệp, từ truyền thống văn hóa quá khứ đến văn hóa, nghệ thuật hiện đại, đương đại, từ cách nói, cách viết đến ngôn ngữ và chữ viết...
Điều đặc biệt quan trọng là, xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc, toàn diện bản chất xã hội và đặc trưng của văn hóa nói chung, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rất rõ ràng, sinh động, đầy sức thuyết phục các đặc thù và sức mạnh riêng của mỗi lĩnh vực, mỗi loại hình hoạt động văn hóa cụ thể, từ đó chỉ đạo chính xác, khoa học các quan điểm cơ bản nđối với từg lĩnh vực và hoạt động đó.
Ở đây chỉ xin nêu vắn tắt một vài dẫn chứng về lĩnh vực văn nghệ (được hiểu là văn học và các loại hình nghệ thuật).
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của cốt cách, tâm hồn, đặc tính dân tộc. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng văn nghệ Người đã khai sinh ra nền văn nghệ cách mạng và chính Người là ngọn cờ đầu, là người thầy, người chiến sĩ mở đường, tiên phong trong sáng tạo văn nghệ, cả thơ ca, truyện ký, kịch chính luận và lý luận văn nghệ.
Bằng cả cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã đúc kết và khẳng định một chân lý, một quan điểm sâu sắc: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng con người mới và xã hội mới.
Quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh đã có một ý nghĩa đặc biệt to lớn và sâu sắc trong việc tập hợp, rèn luyện, xây dựng và phát triển một đội ngũ văn nghệ sĩ kiểu mới, làm cho họ trở thành những nghệ sĩ, chiến sĩ, chiến sĩ, nghệ sĩ, tự nguyện tham gia vào sự nghiệp cách mạng bằng tài năng và sự sáng tạo của mình. Để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình chiến sĩ, nghệ sĩ - Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn văn nghệ sĩ phải bồi dưỡng đồng thời cả phẩm chất và tài năng, hai nhân tố quyết định cho thành công trong hoạt động sáng tạo của mình “Phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh”.
Văn nghệ “cần hiểu thấu liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân”, gắn bó và am hiểu sâu thực tiễn đời sống lao động, sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt, học tập và xây dựng cuộc sống mới để có thể phản ánh chân thật, sinh động thực tiễn ấy, “bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao cho tinh thần ấy”.
Thực tiễn phong phú trong lao động và đấu tranh của nhân dân luôn luôn là nguồn sinh khí, nguồn nhựa sống vô tận cho sáng tạo văn học và nghệ thuật, chính vì thế, Hồ Chí Minh nêu lên yêu cầu văn nghệ sĩ phải “thật hòa mình với quần chúng”, gắn bó máu thịt với quà chúng, vì “chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó – nhân dân cũng sẽ quên anh ta”(1).
Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của dân tộc, của đất nước, và các tác phẩm đó phải phản ánh cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn sự nghiệp cách mạng của nhân dân, đó là một đòi hỏi, đồng thời là một nguyện vọng, mong chờ sâu xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp văn nghệ và đối với đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng của chúng ta. Sáng tác cho hay, cho chân thật là những yêu cầu tạo ra những giá trị về tư tưởng và nghệ thuật đối với tác phẩm văn nghệ. Theo Hồ Chí Minh, “ca tụng chân thật những người mới, việc mới” không đồng nghĩa với việc tô hồng hiện thực, tạo ra những hình ảnh xa rời đời sống hoặc lẩn tránh việc phê phán cái sai, cái tiêu cực, cái xấu trong xã hội. Người khẳng định: “Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân tộc ta... đồng thời để phê bình nhữg khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, của nhân dân ta, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay,cái tốt thì phải chừng mực, chớ phóng đại”.
Đồng thời với việc khẳng định văn nghệ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tham gia cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến tính đa dạng, phong phú của văn nghệ, coi đó là đặc trưng, là một đòi hỏi nội tại của bản thân văn nghệ và cũng là một đòi hỏi khách quan của công chúng đối với hình thái hoạt động đặc thù này: “... cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người được thấy nhiều loại hoa đẹp”(2).
4. Một luận điểm cơ bản và rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Toàn dân tham gia sáng tạo văn hóa, toàn dân làm nghĩa vụ và đóng góp cho sự phát triển văn hóa, toàn dân tham gia xây dựng và tự quản đời sống văn hóa của mình và toàn dân được quyền hưởng thụ, tiếp nhận, lưu giữ và truyền bá văn hóa tốt đẹp, lành mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, chỉ khi nào được mọi người dân, mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo... tham gia tự nguyện, thường xuyên, chủ động vào công tác văn hóa thì lúc đó, văn hóa mới phát triển bền vững và mạnh mẽ. Đồng thời Người yêu cầu làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống, vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của con người, lúc đó, văn hóa mới hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của mình, trở thành động lực và sức mạnh nội sinh của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng và phong phú của cộng đồng các dân tộc anh em sống trên đất nước ta. Vì vậy, phát triển văn hóa Việt Nam chính là phát triển tính đa dạng, bản sắc dân tộc phong phú, đặc sắc của các dân tộc, đồng thời l;à sự chung sức xây dựng nền văn hóa chung thống nhất trong đa dạng đó. Hồ Chí Minh nhiều lần căn dặn: muốn phát triển văn hóa các dân tộc, phải tẩy trừ những thành kiến, phải thương yêu, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau như anh em ruột thịt, một nhà.
Văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, vì thế, trong suốt cuộc đời, đặc biệt từ ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến ngày qua đời (tháng 9 – 1969), Hồ Chí Minh thường xuyên cổ vũ một cách kiên trì, đầy sáng tạo cho nhiệm vụ xây dựng “đời sống mới” bao gồm đạo đức mới, nếp sống mới, lối sống mới, thuần phong mỹ tục mới.... Cuộc vận động độc đáo này của Hồ Chí Minh trong suốt gần 60 năm qua, đã tạo nên những chuyển biến to lớn, sâu sắc trong đời sống văn hóa của nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là những định hướng lớ cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta hiện nay. Đó vừa là những tư tưởng có ý nghĩa chiến lược sâu sắc, vừa có tác dụng chỉ đạo cụ thể trong hoạt động thực tiễn của chúng ta. Hồ Chí Minh là nhà lý luận văn hóa, đồng thời chính Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất. Ở Người, nói thống nhất với làm, chính vì vậy, những chỉ bảo của Người có sức thuyết phục cao. Đó cũng chính là niềm tự hào và hạnh phúc đối với sự nghiệp văn hóa cách mạng của đất nước và dân tộc ta.
(1) . Sđd, t.7, tr.347-248.
(3) S.đd, t.6, tr.368-369.
(1) . Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. văn học, Hà Nội, 1981, tr.516.
(2) . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.12, tr. 551.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG,
CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Đường Kách mệnh. Đây là cuốn sách bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam đi theo học thuyết Mác – Lênin và cũng là cuốn sách đầu tiên trực tiếp tuyên truyền về chủ nghĩa Mác – Lênin cho lớp thanh niên ưu tú thời đó. Đặc biệt, mở đầu tác phẩm lại là bài nói về Tư cách một người cách mệnh. Phải chăng, Hồ Chí Minh, ngay từ thời kỳ đó, đã bắt đầu chỉ tra một quan điểm lớn của Người: cái đức là gốc của người cách mạng.
45 năm sau, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc ra đi, trước hết, Người dặn dò về Đảng, và vấn đề đạo đức đã được đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Rõ ràng, Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều nhất, quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức. Bàn một cách sâu sắc, cô đọng, thấm thía, đồng thời chính Người đã tự mình, trong cả cuộc đời, thực hiện một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn nhất những tư tưởng và khát vọng đạo đức do mình đặt ra. Hồ Chí Minh vừa là nhà lý luận về đạo đức, vừa là một tấm gương đạo đức trong sáng, gần gũi và độc đáo nhất.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất mới và đã được chính Người gọi tên cho nó, đó là đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng về lý luận và dày công xây đắp trong thực tiễn là đạo đức mang bản chất và phẩm chất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kết hợp nhuần nhuyễn và sinh động với những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta và những tinh hoa đạo đức của loài người. “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”.
Khi bàn về đạo đức, Hồ Chí Minh rất hay sử dụng những khái niệm, phạm trù đạo đức đã quen thuộc với dân tộc ta từ lâu đời, trong đó có đạo đức Nho giáo, Phật giáo, nhưng Người đã đưa vào đó những nội dung mới, có khi hoàn toàn mới, đồng thời Người bổ sung những khái niệm, phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì thế mà có sự hòa nhập những giá trị đạo đức mới với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm cho quan niệm và tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh luô luôn gần gũi, dễ hiểu đối với nhân dân, với mọi người.
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức mới là nền tảng của người cách mạng bởi vì, theo Người, sự nghiệp cách mạng tiêu diệt xã hội cũ, xây dựng xã hội mới với những lý tưởng và khát vọng cao đẹp, là một “sự nghiệp khổng lồ”, đầy gian khổ, phức tạp, cần một sự phấn đấu không mệt mỏi, sự kiên định, lòng dũng cảm và hy sinh lớn của nhiều thế hệ cách mạng. Không chăm lo xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, Đảng khó có thể thực hiện được đến cùng mục tiêu cao cả của cách mạng. Theo cách diễn đạt bình dị của Người, đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi Đảng đang tiến hành sự nghiệp vĩ đại giải phóng và thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đã khái quát và cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh “Đảng phải là đạo đức, là văn minh”, và yêu cầu việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức phải là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với phẩm chất nười cách mạng, người đảng viên.
Như vậy, Hồ Chí Minh, nền đạo đức mới của dân tộc ta bắt đầu hình thành và phát triển mạnh mẽ, thấm sâu vào đời sống, trở thành một bộ phận hết sức quan trọng khắc họa diện mạo và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, của Văn hiến Việt Nam hiện đại. Nó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới.
2. Hồ Chí Minh bàn về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam thời đại mới.
Từ cuộc sống thực của nhân dân, cuộc đời thực của con người và xã hội Việt Nam, từ sự từng trải sâu sắc và tu dưỡng của chính mình, từ niềm tin lớn lao vào khát vọng và sức vươn lên cái chân, cái thiện, cái mỹ của con người, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp các phẩm chất đạo đức cho con người Việt Nam, cho mọi người, mọi đối tượng (công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, bộ đội, công an, già trẻ, thanh niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc, tôn giáo...) trong mọi lĩnh vực hoạt động và sinh sống của con người, trong mọi phạm vi (cá nhân, gia đình, làng xóm, phố phường, tập thể..) và trong các quan hệ phong phú, phức tạp, tinh tế của con người.... Từ đó, Người khái quát thành những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam, những chuẩn mực chung của nền đạo đức cách mạng Việt Nam.
Một là, trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng nhất. Vận dụng khái niệm truyền thống về trung và hiếu, Hồ Chí Minh đã đưa vào đó nội dung hoàn toàn mới: trung với nước là sự trung thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân. Nước ở đây là nước của dân, còn dân là người làm chủ, chủ nhân của đất nước, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Vì thế, theo Hồ Chí Minh, tư tưởng mà Người đề xướng “hiếu với dân”, không phải chỉ dừng lại ở chỗ thương dân, mà là gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳng vào dân, lấy dân làm gốc.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh còn yêu cầu cao hơn: đó là “tận trung, tận hiếu”, có như vậy mới xứng đáng là Đảng của đạo đức và văn minh, cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
“Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội...” là chuẩn mực đạo đức bao trùm của con người Việt Nnam, là định hướng chính trị - đạo đức lớn nhất cho mỗi người, là khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình của tất cả chúng ta theo ngọn cờ, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Hai là, yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức đẹp đẽ à cao cả nhất mà Hồ Chí Minh yêu cầu và khẳng định đối với con người Việt Nam và chính Hồ Chí Minh đã chứng minh tuyệt vời phẩm chất đó bằng toàn bộ cuộc đời mình.
“Đầu tiên là công việc đối với con người”, trong bản bổ sung cho Di chúc, Hồ Chí Minh đã viết như vậy và toàn bộ sự nghiệp của Người cũng đã chứng minh cho tư tưởng nhân văn cao cả này.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt miền xuôi hay miền ngược, già hay trẻ, trai hay gái... hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người, nhưng trước hết là dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Không có tình yêu thương đó, không có thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Tình yêu thương đó gắn liền với thái độ tôn trọng con người, biết cách ngăn đỡ con người, rộng lượng và khoan dung với người, đồng thời nghiêm khắc với mình.
Vì yêu thương vô hạn đối với con người, Hồ Chí Minh coi đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do là con đường để giải phóng con người, coi con người được giải phóng và được sống trong độc lập, tự do là nguyện vọng sâu xa và hạnh phúc lớn lao của chính con người.
Yêu thương con người gắn liền với niềm tin tuyệt đối vào khả năng tự giải phóng của con người, vào năng lực và khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình theo lý tưởng chân, thiện, mỹ.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những phẩm chất được Hồ Chí Minh đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất trong các bài viết, bài nói về đạo đức cách mạng.
Phẩm chất này gắn với hoạt động thực tiễn, được thể hiện cụ thể, hàng ngày của mỗi con người, là cái nhìn thấy được của đạo đức, không thể che giấu, gắn chặt giữa nói và làm, suy nghĩ và hành động....
Hồ chí Minh đã sử dụng những khái niệm truyền thống của đạo đức phương Đông, giữ lại những gì tốt đẹp, phù hợp, lọc bỏ những gì lạc hậu, lỗi thời và đưa vào những nội dung mới của thời đại mới.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, tự lực cánh sinh, có kế hoạch, sáng tạo và có năng suất cao.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của nhân dân, của nước, của bản thân, tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, không phô trương, hình thức, xa xỉ, hoang phí....
Liêm là “Luôn luôn tôn trọng của công, của dân”, liêm khiết trong mọi hoàn cảnh “không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình”.
Chính “nghĩa là không tà, thẳg thắn, đứng đắn” đối với mình đối với người và đối với việc. “Việc thện thì dù nhỏ mấy cũg làm, việc ác thìdù nhỏ mấy cũng tránh”.
Về chí công vô tư, theo Hồ Chí Minh là “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Hồ Chí Minh đã dành nhiều bài nói, bài viết để phân tích, giải thích sinh động, cụ thể và sâu sắc về các phẩm chất trên, đồng thời chỉ ra quan hệ mật thiết giữa chúng với nhau. cần, kiệm, liêm, chính tốt sẽ dẫn tới chí công vô tư, và chí công vô tư, một lòng vì vì dân, vì nước nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. người yêu cầu mọi người dân Việt Nam đều phải rè luyện, tu dưỡng theo tác phẩm chất trên, trong đó đặc biệt là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét,có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
Bốn là, tinh thần quốc tế chân chính, trong sáng là yêu cầu và phẩm chất đạo đức mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt ra ngoài quốc gia, dân tộc, xây dựng tình đoàn kết “bốn hương vô sản đều là anh em”, tình đoàn kết với các dân tộc, với nhân dân các nước, với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, hữu nghị, công lý và tiến bộ xã hội.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
Để xây dựng nền đạo đức mới, cùng với việc đúc kết thành lý luận đạo đức nhằm chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh đồng thời xác định những nguyên tắc và phương châm để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng và cho việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của mỗi con người. Đây cũng là một đặc trưng rất riêng, độc đáo của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức là một yêu cầu, một phương châm lớn và sâu sắc để xây dựng đạo đức mà bằng cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc và trọn vẹn. Đối với Hồ Chí Minh, nói phải luôn luôn đi đôi với làm và cao hơn, làm rồi mới nói, làm nhiều, nói ít và thậm chí làm hết lòng, làm tận tụy mà không nói, không tự phô trương mình.
Hồ Chí Minh rất gét những kẻ đạo đức giả, nói mà không làm, nói một đàng, làm một nẻo và Người cho rằng, những kẻ đó làm giảm đi lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đây là bài học thời sự sâu sắc đối với vấn đề đạo đức trong Đảng ta hiện nay. Người chỉ ra một luận điểm rất quan trọng, có giá trị vô cùng thiết thực không chỉ lúc đó, mà trực tiếp với hiện nay: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Chính luận điểm này đã thể hiện rõ một phương châm xây dựng đạo đức là vấn đề nêu gương. Không gì thuyết phục hơn, có sức cảm hóa và lôi cuốn hơn trong lĩnh vực đạo đức bằng việc nêu gương, Hồ Chí Minh đã làm như vậy một cách cần mẫn, tinh tế, sáng tạo và vì thế đã có tác dụng vô cùng to lớn, sâu sắc trong toàn bộ đời sống đạo đức của xã hội ta, đất nước ta. Người đã hai thác triệt để các tấm gương “người tốt, việc tốt”, gương các anh hùng, liệt sĩ, gương các vị tiền bối, cha ông trong lịch sử, từ chung đến riêng, từ lớn đến nhỏ, từ xa tới gần, của thế hệ này đối với thế hệ khác.... để dày công xây đắp nền tảng vững chắc và các đỉnh cao của đạo đức mới.
Hai là, xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây là con đường để xây dựng đạo đức mới, là nguyên tắc được Hồ Chí Minh khẳng định và vận dụng thường xuyên, linh hoạt, đầy sáng tạo trong chỉ đạo thực hiện. Xây dựng đạo đức mới là một cuộc đấu tranh vô cùng phức tạp, gay gắt, tinh vi, diễn ra trong mọi lúc, mọi nơi, trong từng tập thể và từng con người, vì thế nguyên tắc trên là một đòi hỏi khách quan, cần vận dụng triệt để, không được né tránh, đặc iệt với cuộc chiến đấu chống cái ác, cái xấu, sự thoái hóa, biến chất hiện nay trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Xây dựng đạo đức mới, trước hết là tuyên truyền, giáo dục các phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới cho mỗi người, trong từng gia đình, từng giới, tập thể, cộng đồng, làng xóm, trường học và toàn xã hội. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công việc này, đến việc tạo ra môi trường đạo đức trong sáng, lành mạnh cho con người, cho từng cộng đồng.
Xây dựng đạo đức cũng bằng việc khơi dậy ý thức vươn lên tự nguyện của con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ đó tạo ra bằng được năng lực tự trau dồi đạo đức trong mỗi con người, loại bỏ cái ác, cái xấu, cái vô đạo đức.
Cùng với xây, nhiệm vụ Chống giữ vị trí đặc biệt quan trọng để tạo môi trường cho cái tốt đẹp nảy nở, để bảo vệ và khẳng định được cái mới về đạo đức đang hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh quyết liệt với cái ác, cái xấu, cái phản động và cái vô đạo đức.
Hồ chí Minh đã nhiều lần vạch ra rất cụ thể những khuyết điểm, những căn bệnh đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhân dân và chỉ rõ tác hại ghê gớm của chúng đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng. Ngay từ năm 1952, Người đã quy những tệ nạn đó vào ba loại chính là tham ô, lãng phí, quan liêu và Người coi đó là tội ác, là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra. Người khẳng định dứt khoát, phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó. “Cần phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng.... Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ”.
Tạo ra được một phong trào quần chống rộng rãi tham gia trực tiếp vào quá trình xây và chống là con đường hiệu quả nhất trong các cuộc vận động xây dựng đạo đức mới của chúng ta, đó cũng là kinh nghiệm lớn mà Hồ Chí Minh đã dày công chỉ đạo và thực hiện.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, kiên trì, bền bỉ, hàng ngày, bởi vì “Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện, bề bỉ, hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện, càng trong”. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra một hiện tượng mà đến nay, chúng ta càng thấm thía vì tính thời sự của nó, đó là có những người trong lúc đấu tranh thì trung thành, không sợ nguy hiểm, cực khổ... có công với cách mạng, song đến khi có “ít quyền họn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quang liêu... mà biến thành người có tội với cách mạng”.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, cái xấu, cái tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong bản thân mình, trong lòng mình. Vì vậy, cần có cách nhìn biện chứng và nhân văn để phát triển cái thiện, đẩy lùi cái ác trong mỗi con người và đặc biệt quan trọng là từng người phải rèn luyện, tu dưỡng, dám đấu tranh với chính mình để làm cho “phần tốt ở trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng.
4. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một nhắn gửi cực kỳ sâu sắc về thời kỳ đất nước ta bước vào xây dựng và đổi mới sau khi giành được độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Người cho rằng, đó là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” để “chống lại những gì đã củ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Cuộc chiến đấu khổng lồ ấy lại diễn ra trong những điều kiện mới với những biến động to lớn, sâu sắc, phức tạp và khó lường. Chúng ta đã có đường lối đổi mới được thực tiễn kiểm nghiệm 16 năm qua là đúng hướng và đúng đắn. Mặc dầu vậy, chúng ta đang đứng trước rất nhiều những vấn đề mới, thách thức mới. Do tác động cực kỳ phức tạp, nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, nên vấn đề đạo đức đang trở thành ột trong những vấn đề bức xúc nhất của toàn Đảng và toàn dân, có ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, quyền lãnh đạo và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tác động tiêu cực đến toàn bộ nền đạo đức xã hội mà chúng ta đã dày công xây dựng nhiều thập kỷ qua.
Sự nghiệp cách mạng của chúng ta, cuộc sống của nhân dân ta đang đòi hỏi phải kiên quyết làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức xã hội. LÀM được hai hiệm vụ trên cũng chính là thực hiện trung thành với những khát vọng và di huấn đạo đức của Chủ tịch hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta. Trở về và thấu hiểu sâu hơn nữa cội nguồn Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta vững tâm, kiên định đi tới trong cuộc đấu tranh vì một nền đạo đức Việt Nam ngang với tầm vóc của dân tộc và thời đại, thấm sâu những tư tưởng lớn của Người về đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
TƯ TUỞNG HỒ CHÍ MINH VỂ CHĂM LO, BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU
I/ Cơ sở của tư tưởng Hồ Chí Minh vềchăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau:
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ với cách mạng và sự phát triển của dân tộc.
- Thế hệ trẻ là lực lượng quyết định sự phát triển của cách mạng, của dân tộc.
+ Năm 1925, trong bài Gửi thanh niên An Nam, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” . Cũng năm 1925, khi truyền bá tư tưởng cách mạng cho dân tộc, Hồ Chí Minh chọn đối tượng đầu tiên là thanh niên và Người tập hợp họ trong tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
+ Ngay ngày khai trừơng đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh căn dặn thế hệ trẻ:“Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tời đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc nam châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
+ Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh nói với thanh niên: “Người ta thường nói, thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”.
- Thế hệ trẻ phải vươn mình lên để hoàn thành trọng trách lịch sử đó.
+ Hồ Chí Minh nói: “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra sức làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”.
+ Với tuổi nhi đồng, Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngày nay các cháu là nhi đồng. Ngày sau, các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới. Các cháu đoàn kết thì thế giới hòa bìnhvà dân chủ, sẽ không có chiến tranh.
Các cháu phải thi đua, tuỳ theo sức của các cháu làm được việc gì có ích cho kháng chiến thì thi đua làm việc ấy”
- Trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ của Đảng.
Hồ Chí Minh khẳng định, thế hệ trẻ xứng đáng với tương lai thì thế hệ đi trướng, những bậc cha anh phải có trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ. Đó cũng là trọng trách lớn lao của cách mạng, của Đảng. Bởi vậy trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau:
- Truyền thống dân tộc:
+ Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam ta có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Dân ta vì trọng đạo làm người mà tôn sư và coi trọng giáo dục. Mục tiêu là học để làm người, để trở thành tài. Phương châm giáo dục truyền thống là “Tiên học lễ, hậu học văn” và “cần khổ học”.
+ Hồ Chí Minh hấp thụ truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc ngay từ cái nôi gia đình và quê hương. Xứ Nghệ tuy đời sống vất vả nhưng rất hiếu học, thời nào cũng sản sinh người hiền tài. Hồ Chí Minh ảnh hưởng sâu sắc tấm gương kiên trì học tập của người cha, tấm gương nhà giáo mẫu mực của ông ngoại.
- Sự khổ công học, khổ công luyện ngay từ nhỏ theo truyền thống dân tộc và gia đình và trong suốt cuộc đời của Người.
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa, những tri thức của giáo dục phương Đông từ nhỏ và không ngừng bồi đắp thêm cho mình. Sau khi đi khắp thế giới trở về nước, Hồ Chí Minh vẫn thường nhắc nhở mọi người hãy nhớ lời Khổng Tử dạy “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”.
+ Hồ Chí Minh đi nhiều, học nhiều, tiếp xúc với văn minh và nền giáo dục phương Tây, thấy rõ mối quan hệ giữa học đi đôi với hành, lý luận kết hợp với thực tiễn.
- Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác-LêNin về giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ.
+ Tiếp thu luận điểm của C.Mác: “Bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp công nhân nhận thức rất rõ ràng tương lai của họ và do đó tương lai của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn thức tỉnh một dân tộc trước hết phải thức tỉnh thanh niên”.
+ Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin: “Không học thì không trở thành người cộng sản được”, Hồ Chí Minh nói: “Đốt nát cũng là kẻ địch”. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, và người cán bộ cách mạng Việt Nam phải nhớ: “cán bộ phải có văn hóa làm gốc”, vì “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức”; và khi “chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật” thì đó là “bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
II. Những nội dung chính cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau:
1. Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục thực dân.
- Tố cáo thực dân Pháp thực thi ở Việt Nam chính sách ngu dân.
+ Trong Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925), Hồ Chí Minh tố cáo: “Để có thể đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ một cách êm thắm, bọn cá mập của nền văn minh không những đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành một chính sách ngu dân triệt để”.
+ Hồ Chí Minh tố cáo thực dân Pháp cấu kết với phong kiến hạn chế giáo dục và thực hiện giáo dục nhồi sọ làm hư hỏng các thế hệ trẻ Việt Nam. Người viết: Trong mấy mươi năm nô lệ, đế quốc và phong kiến đã dùng giáo dục nô lệ để nhồi sọ thanh niên ta, làm cho thanh niên ta hư hỏng.
- Hồ Chí Minh chủ trương, khi cách mạng thành công sẽ thực hiện nền giáo dục cách mạng. Nhưng “trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng của giáo dục thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rồi đời sống lao động và đầu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp; học theo lối nhồi sọ”.
2. Hồ Chí Minh xác định vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ.
- Giáo dục là bước đầu tiên.
+ Sau hơn một tháng đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh xác định: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí” 1, vì “Nuớc nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài” 2.
+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu.” 3.
- Xây dựng nền giáo dục kháng chiến.
Khi cách mạng Việt Nam cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Văn hóa giáo dục phải phát triển mạnh để phục vụ yêu cầu của cách mạng. Văn hoá giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”4.
- Trong hoàn cảnh nào cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ: “Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, sự nghiệp giáo dục của chúng ta vẫn phát triển nhanh, mạnh hơn bao giờ hết”1.
Như vậy, với Hồ Chí Minh, cách mạng càng phát triển càng đòi hỏi đông đảo đội ngũ cán bộ các thế hệ, đòi hỏi dân trí phải được nâng cao, giáo dục phải phát triển để làm nhiệm vụ chăm lo bồi dưỡng các thế hệ cách mạng, trong đó đặc biệt quan trọng là thế hệ trẻ.
3. Mục đích của giáo dục là chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng.
- Đào tạo cán bộ cho cách mạng.
Nói về mục đích của nền giáo dục cách mạng, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân”2. Cụ thể là nền giáo dục cách mạng sẽ đào tạo con em những người lao động thành “những người công dân có ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lục sẵn só của các em”.
- Trường học là nơi đào tạo những người chủ tương lai của đất nước .
Về nhà trường, Người nói: “Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà. Về mọi mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến.”1
- Giáo dục phải phù hợp với lứa tuổi.
+ Với các cháu thiếu nhi, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hoá”2. Đó chính là con đường “làm cho con em chúng ta thành những trò giỏi, con ngoan, bạn tốt và mai sau là những công dân dũng cảm, cán bộ gương mẫu, người chủ xứng đáng của chế độ xã hội chủ nghĩa”.
+ Với thanh niên phải giáo dục họ “luôn luôn nâng cao tinh thần yêu tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự ngiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”3.
+ Thường xuyên giáo dục cán bộ trẻ, tiếp tục chăm sóc bồi dưỡng giáo dục họ để “làm việc, làm người,làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, “giai cấp và nhân dan, Tổ quốc và nhân loại”. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”1.
4. Bồi dưỡng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau một cách toàn diện.
- Hồ Chí Minh xác định: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”2; “thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”3.
- Đạo đức và tài năng là cả hai nội dung không thể thiếu được trong bồi dưỡng giáo dục, trong đó đạo đức là yếu tố gốc. Năm 1964 Người nói: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, là rất quan trọng”4; “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thựcgiải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật”1.
- Bồi dưỡng giáo dục phải trên tất cả các mặt “đức, trí, thể, mỹ”. Những nội dung này gắn bó chặt chẽ với nhau.
- Giáo dục toàn diện, nhưng phải vận dụng phù hợp ở mỗi đối tượng.
Trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng (ngày 30/10/1955) Người đã chỉ ra: “Mỗi một cấp giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ của mình trong lúc này”:
+ Đại học thì cấn kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà.
+ Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.
+ Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu.
5. Phương châm giáo dục thế hệ trẻ của Hồ Chí Minh.
- Học đi đội với hành, giáo dục gắn liền với xã hội.
+ Tháng 9/1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh viết: “Đối riêng với các em lớn, …Phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp nước, đấy là bổn phận của mỗi công dân. Các em lớn chưa hẳn đã đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sỹ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”2.
Với các em nhỏ, Người khuyên cứ “Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội, giúp nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả đội đem nhau đi giúp đồng bào”3.
+ Trong kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ trương: “Chúng ta cần phải có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc. Vì vậy, chúng ta:
1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
2. Muốn như thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho các trường”1.
+ Ngày 31/8/1960, trong Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa, Người nhắc nhở: “Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân”2.
- Phối hợp nhà trường – xã hội – gia đình.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội, trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn”.
Ngày 31/10/1955 khi miền Bắc đã giải phóng, Hồ Chí Minh viết: “Tôi cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân”3.
+ Các đoàn thể là một yếu tố quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ, nhất là Đoàn thanh niên. Vì vậy, Hồ Chí Minh viết: “Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn nắn, sửa chữa. Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên”.
- Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục.
+ Hồ Chí Minh dạy: Trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá đối bằng đầu”. Đồng thời thầy và trò cần giúp đỡ những anh chị em phục vụ cho nhà trường. Các anh chị em nhân viên thì nên thi đua sao cho cơm lành canh ngọt để cho học sinh ăn no, học tốt.
+ “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó”1.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục.
- Giáo dục phải xuất phát và bám chắc mục tiêu giáo dục.
Người dạy: “Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa”1; “Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc”2.
- Giáo dục là một khoa học.
Người nói: “Giáo dục nhi đồng là một khoa học” do vậy, cách dạy trẻ “phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng (chớ nên làm cho chúng hóa ra những “người già sớm”. Nhiều thư các cháu gửi cho Bác Hồ, viết như người lớn viết; đó là một triệu chứng già sớm nên tránh)”3; ở bậc tiểu học, “cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu”4.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VỪA LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, VỪA LÀ NGƯỜI ĐẦY TỚ TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN
Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã để lại những luận điểm rất quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng trong công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới.
1. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
- Khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. 1
- Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam trên cơ sở phân tích đúng đắn tình hình kinh tế - xã hội và giai cấp ở Việt Nam, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong Cách mạng Việt Nam, tổ chức ra Đảng cộng sản Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng, bao giờ Đảng cũng “tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
- Xuất phát từ tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dươngvào đầu năm 1930”. 2 Điều này thể hiện hai mặt gắn bó với nhau rất chặt chẽ ở Hồ Chí Minh là phải nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, để vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Người khẳng định: không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản, nhưng việc tiếp nhận đường lối của Đảng Cộng sản lại là điều kiện cần thiết để xác định được mục tiêu yêu nước đúng đắn; còn mỗi người cộng sản trước hết phải là người yêu nước, hơn nữa phải là người yêu nước tiêu biểu, lãnh đạo công nhân và quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
- Thấm nhuần luận điểm của Mác-Ănghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giai cấp vô sản phải tự mình trở thành dân tộc”, Hồ Chí Minh khi thành lập Đảng đã xác định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam cũng như phong trào cách mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh luận điểm của Người về việc gắn Đảng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, gắn giai cấp với dân tộc là hoàn toàn đúng đắn.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam – “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
- Từ luận điểm phải kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để hình thành Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh còn đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2 – 1951), Người đã khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam” 1. Năm 1961, luận điểm đó được Người nhắc lại: “Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”. 2
- Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc, Người đã hiều rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái như không thấy rõ vai trò và sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân, hoặc chỉ thiên về công nông mà không thấy rõ vai trò của các tầng lớp, giai cấp khác đi với công nông tạo thành sức mạnh to lón của khối đại đoàn kết toàn dân.
- Theo Hồ Chí Minh, cái quyết định giai cấp công nhân của Đảng không phải chỉ ở số lượng Đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là ở nền tảng tư tưởng của Đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin; ở mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giái phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; ở vấn đề Đảng nghiêm túc tuân thủ những của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”.
- Trong cuốn Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng một câu của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động…chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”.1 Người cũng chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.2
- Người đã tìm thấy lý luận cách mạng tiền phong ở chủ nghĩa Lênin: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.3
- Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm nòng cốt” theo Hồ Chí Minh không có nghĩa là giáo điều theo từng câu, từng chữ mà là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời thâu thái những tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tác của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
- V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới để phân biệt với những Đảng cơ hội của Quốc tế II. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý xây dựng Đảng của V.I.Lênin, đề ra những nguyên tác xây dựng Đảng sau đây:
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đây là nguyên tác cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản, không biến Đảng thành một câu lạc bộ, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng.
- Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau trong một nguyên tắc, dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung; tập trung trên cơ sở dân chủ, thep nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiền đánh thì chỉ như một người”.4
- Về dân chủ, Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của một người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc ấy, quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.” 5
- Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì có dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần dân chủ hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do dó hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề. Việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, như thế công việc mới chạy, như thế mới tránh được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ lại vào tập thể. Không xác định rõ cá nhân phụ trách, thì giống như “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
- Người kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau” 1.
- Về vấn đề tập trung dân chủ, Người giải thích:
“Tập thể lãnh đạo là dân chủ
Cá nhân phụ trách là tập trung
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung” 2
Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình:
- Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. 3
- Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn.
- Tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao trình độ của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc. Người nói: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan từa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó… là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” 4.
- Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học cách mạng, mà còn là của nghệ thuật. Người lưu ý cán bộ, đảng viên và các cấp bộ Đảng từ trên xuống dưới phải “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình”.5 . Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác, “phải có tình đồng chí thường yêu lẫn nhau”.
Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên.”
- Theo Hồ Chí Minh nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cá bộ, đảng viên đối với Đảng. Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật này lá do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”1
- Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách mạng” 2.
Năm là, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
- Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết thống nhất của Đảng là một nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân, xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc giành được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
- Hồ Chí Minh coi giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Trong di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” 3
- Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Nếu xa rời cơ sở này sẽ xuất hiện những nguy cơ phá hoại đoàn kết thống nhất từ bên trong.
- Củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất đối với cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. 1
- Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người yêu cầu: phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ; phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình; phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra – tham ô, lãng phí, quan liêu, bè cánh, cơ hội, dối trá, chạy theo chức quyền, danh lợi.
6. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân. Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân.
- Từ khi Đảng ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự gắn bómáu thịt với nhân dân, Đảng đã được nhân dân thừa nhân là Đảng duy nhất có vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam và trong suốt tiến trình đi lên của cách mạng Việt Nam, Đảng ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy. Năm 1960, Người nói: “Với tất cả sự khiêm tốn của một người cộng sản, chúng ta có thể tự hào rằng, Đảng ta vĩ đại thật”.
- Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau. Người nhấn mạnh: Lãnh đạo có nghĩa là làm đầy tớ.
- Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ nhân dân, chứ không phải người chủ của nhân dân, tự cho phép mình đứng trên dân, trên Nhà nước, trên pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước là nhằm xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.
- Là đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng không có quyền lợi gì của riêng mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc. Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng dân. đảng cũng phải lấy dân làm gốc.
7. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
- Chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng.
- Hồ Chí Minh nhận định, bên cạnh số đông đảng viên xứng đáng với danh hiệu của mình, thì vẫn có một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng…họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi” 1. Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm quan trọng: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” 2. Vì vậy, phải chỉnh đốn để sửa chữa những lỗi lầm, sai trái ấy.
- Đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu những ảnh hưởng của xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát huy được cái tốt, cái hay, lọc bỏ được được cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.
- Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh coi việc xây dựng đảng, chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên của Đảng. Người nhìn thấy rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lựx có sức mạnh rất to lớn để cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nếu biết sử dụng đúng quyền lực; mặt khác, nó cũng có sức phá hoại rất ghê gớm vì con người nắm quyền lực có thể thoái hóa, biến chất rất nhanh chóng, nếu đi vào con đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, và khi đã có quyền lực thì lợi dụng quyền lực, lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi… Vì vậy, trong điều kiện đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đồi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá biến chất gây ra.
- Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” 3
Những luận điểm trên đây về công tác xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh thực sự là một chân lý, phản ánh đúng thực tiễn và đã được thực tiễn kiểm nghiệm, khôngphải chỉ từ thực tiễn nước ta, mà còn ở nhiều nơi trên thế giới, có ý nghĩa rất sâu xa đối với Đảng Cộng sản, đối với mỗi đảng viên cộng sản. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng và Nghị quyết Đại hội IX đang được toàn Đảng triển khai hiện nay là những việc làm thiết thực để thực hiện những di huấn của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong tình hình mới.
1. Sđd, t.5, tr.505
2. Sđd, t.7, tr.492
3 Sđd, t.5, tr.553
4. Sđd, t.5, tr.261
1 Sđd, t.5, tr.250
2 Sđd, t.6, tr.167
3 Sđd, t.12, tr.510
1 Sđd, t.7, tr.492