Căn cứ Công văn số 3654/GDĐT – TH ngày 03/11/2020 của Ủy ban nhân dân Quận 12 Về hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục địa phương trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 từ năm học 2020-2021. Thư viện trường Nguyễn Du xin quý thầy cô cùng các bạn học sinh đôi nét về lịch sử hình thành và phát triển của Quận 12, từ đó hiểu và yêu hơn về Quận 12 nơi chúng mình cùng học tập và sinh sống.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUẬN
12

Quận 12 là quận nội thành của Thành phố Hồ Chí
Minh, nằm ở phía tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận
được thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1997, với nhiều địa điểm tham quan như căn
cứ Vườn Cau ở Thạnh Lộc, chùa Thiên Vân, chùa Quảng Đức, làng
cá sấu, các vườn mai, vườn kiểng... và cũng là địa điểm đặt trung tâm CNTT lớn
nhất nước là Công viên Phần Mềm Quang Trung.
Lịch
sử hình thành và phát triển của quận gắn liền với lịch sử huyện Hóc Môn kể từ khi mới thành lập cho đến sau ngày
giải phóng. Trước năm 1997, quận 12 thuộc địa phận huyện Hóc Môn[2].
Ngày 6 tháng 1 năm 1997, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 03/CP[3], thành lập
quận 12 trên cơ sở tách toàn bộ diện tích và dân số 5 xã An Phú Đông, Đông Hưng Thuận, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Thạnh Lộc và một phần hai xã Tân Chánh Hiệp, Trung Mỹ Tây của huyện Hóc Môn.
Ngày 23 tháng 11 năm 2006, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 143/2006/NĐ-CP [4] về việc điều chỉnh địa giới hành chính phường, quận; thành lập
phường thuộc quận Gò Vấp, quận 12
và quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, thành lập phường Tân Hưng Thuận thuộc quận 12 trên cơ sở điều chỉnh
181,08 ha diện tích tự nhiên và 24.829 nhân khẩu của phường Đông Hưng Thuận.
Quận
12 nằm về phía tây Bắc Thàh phố Hồ Chí Minh, được bao quanh một phần Quốc lộ 1A, quận là ngõ giao thông khá quan trọng của thành phố nối liền
với các tỉnh miền Đông Nam Bộ[2]:
Phía Đông giáp thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương và Quận Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Phía Tây giáp Huyện Hóc Môn và Quận Bình Tân, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Phía Nam giáp Quận Bình Thạnh, Quận Gò Vấp, Quận Tân Bình, Quận Tân Phú và Quận Bình Tân, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Phía Bắc giáp Huyện Hóc Môn, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Quận
12 có 11 phường trực thuộc [1]: An Phú Đông, Đông Hưng Thuận, Hiệp Thành, Tân Chánh Hiệp, Tân Hưng Thuận, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Thạnh Lộc, Thạnh Xuân, Thới An, Trung Mỹ Tây.
Trong
đó phường Tân Chánh Hiệp là trung tâm của quận.
Quận
12 có hệ thống đường bộ với Quốc lộ 22 (nay là đường Trường Chinh), xa lộ vành đai ngoài (nay là Quốc lộ 1A), các Tỉnh lộ 9, 12, 14, 15, 16, hệ thống các hương lộ này khá
dày, Quận 12 có cơ sở hạ tầng thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội[2]. Đường Trường
Chinh, đại lộ nối từ quận Tân Bình, xuyên qua quận 12 đến tận cửa ngõ Tây Bắc
của Thành phố Hồ Chí Minh đã được mở rộng đến 10 làn xe. Rất nhiều
trung tâm mua sắm sầm uất, các khu cao ốc, căn hộ cao cấp cũng nhanh chóng hình
thành dọc theo đại lộ này làm cho các khu dân cư của quận 12 nhanh chóng hình
thành và rộng mở. Nhiều trường đại học mở thêm cơ sở đào tạo, nhiều công ty mở
thêm chi nhánh, kho bãi, trạm trung chuyển,... tại khu vực này làm cho bộ mặt
của quận 12 nhanh chóng thay đổi sau 15 năm thành lập quận.
Quận
12 còn có sông Sài Gòn bao bọc phía đông, là đường giao thông thủy quan trọng.
Trong tương lai, nơi đây sẽ có đường sắt chạy qua. với những thuận lợi đó Quận
12 lợi để bố trí các khu dân cư, khu công nghiệp, thương mại – dịch vụ – du lịch.
Đến
nay, Quận 12 có 6 di tích được công nhận di tích lịch sử, văn hóa cấp TP. Đây
là những nơi sinh hoạt, giáo dục truyền thống cách mạng và đây cũng là điểm
tham quan của người dân trong và ngoài nước góp phần xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện về giá trị chân – thiện – mỹ, thể hiện tinh thần nhân
văn, dân chủ và khoa học là nền tảng tinh thần vững chắc cho xã hội, bảo đảm sự
phát triển bền vững của đất nước.
1. MIẾU CÂY QUÉO
(Di tích lịch sử văn hóa cấp Thành Phố)

1. Miễu
Cây Quéo được xây dựng
cách đây khoảng 100 năm. Đâu thế kỷ XX, tại ấp Cây Quéo thuộc làng Tân
Đông Trung, huyện Hóc Môn có một cây Quéo lớn. Dưới tán cây có hai ngôi miếu: một
thờ bà Huỳnh Thị Nương và một thờ Ngũ hành. Người dân địa phương gọi chung cả
hai ngôi miếu này là Miễu Cây Quéo.Địa điểm Miếu Cây Quéo có những giá trị tiêu biểu như là cơ sở tín ngưỡng
dân gian của quần chúng Nhân dân khu vực; nơi thờ cúng các chiến sĩ trận vong
trong kháng chiến chống thực dân Pháp tại đồn Thuận Kiều; là địa điểm gắn liền
với nhiều sự kiện cách mạng của quần chúng Nhân dân 18 Thôn Vườn Trầu, Nhân dân
vùng Gò Vấp, Hóc Môn, Tân Bình dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1930 – 1975. Sự
kiện lá cờ búa liềm tung bay trên ngọn Miếu Cây Quéo tháng 10/1930, tháng
11/1940; lá cờ đỏ sao vàng trong Cách mạng Tháng Tám 1945 là sự kiện lịch sử gắn
liền địa điểm Miếu Cây Quéo sẽ được lưu truyền mãi mãi từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Ngày nay, Miếu Cây Quéo còn là nơi giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng
cho thế hệ trẻ, là địa điểm sinh hoạt văn hóa lành mạnh của quần chúng Nhân dân
khu vực.
Trên cơ sở đánh giá tầm quan trọng những sự
kiện cách mạng từng diễn ra tại Miếu Cây Quéo, đánh giá ý nghĩa của Miếu trong
đời sống tín ngưỡng dân gian của cư dân địa phương. Ủy ban nhân dân Thành phố
đã ban hành Quyết định số 5514/QĐ-UBND ngày 30 tháng 11 năm 2006 của UBND Thành
phố về xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh Thành phố.
2. KHU TƯỞNG NIỆM VƯỜN CAU ĐỎ

Vùng đất Vườn
Cau Đỏ đã hình thành những căn cứ lõm cách mạng. Vườn Cau Đỏ bao quanh là các
xã Nhị Bình, Quới Xuân, Thạnh Lộc, Tân Thới Hiệp và Đông Thạnh. Đây là nơi có
nhiều vườn cau, cây trái xum xuê, xưa kia là vùng đất đầm lầy, kênh rạch chằng
chịt như mạng nhện, cỏ
dại mênh mông, rắn rết, muỗi, đỉa, bò cạp,… nhiều vô tận. Tên
gọi Vườn Cau Đỏ ra đời cách đây khá lâu, không ai còn biết chính xác nguồn gốc
ra đời của nó. Theo các đồng chí lão thành cách mạng đã từng hoạt động trên địa
bàn này, trong chiến tranh ở đây cau mọc thành từng đám nên gọi là “Vườn Cau”,
còn màu “đỏ” của địa danh “Vườn Cau Đỏ” không chỉ đơn thuần là màu sắc của thân
cau bị ngả màu do tàn phá ác liệt của chiến tranh mà còn mang ý nghĩa là những
hy sinh xương máu của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, Nhân dân đã ngã xuống mảnh
đất này. Vị trí của Vườn Cau Đỏ ở sát cạnh và bao quanh là các cơ quan quân sự
của địch chiếm đóng. Nó được ví như một chiếc túi chứa đựng tất cả những mối
liên hệ từ bên ngoài, và là một căn cứ nối liền rừng với thành phố. Mất Vườn
Cau Đỏ là mất liên lạc với thành phố. Chính vì vậy, Vườn Cau Đỏ trở thành bàn
đạp giữa thành phố và căn cứ. Nơi đây vừa có địa hình thuận lợi về tầm che
khuất, giữ được yếu tố bí mật để triển khai đội hình chiến đấu. Đối với ta,
Vườn Cau Đỏ trấn giữ một vị trí trung chuyển không thể thay thế trên hướng Tây
Bắc Sài Gòn. Từ một “vành đai an ninh” thô sơ ban đầu, về sau Vườn Cau Đỏ phát
triển thành một khu “căn cứ lõm”, một mật khu cách mạng, là nơi đứng chân, che
giấu lực lượng cách mạng. Căn cứ gồm nhiều “Lõm” khác nhau giàn trải trên một
địa bàn rộng, là bàn đạp xuất phát của các lực lượng kháng chiến tấn công vào
Sài Gòn trong kháng chiến chống Mỹ.
3. ĐÌNH HANH PHÚ
(Di tích lịch sứ văn hóa cấp Thành Phố)

Theo Gia Định thành
thông chí của Trịnh Hoài Đức thì thôn Hanh Phú được
thành lập đầu thể kỷ XIX, thuộc tông Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trần Phiên
An. Sau khi thôn Hanh Phú hình thành và ôn
định, đình Hanh Phú được xây dựng.
Qua hai cuộc kháng
chiến, đình Hanh Phú là chứng cứ tô cáo tội ác
của thực dân Pháp và để quốc Mỹ. An Phú Đông, cù lao Hanh Phú nhiều lần
bị quân Pháp bao vậy, càn quét, hàng ngàn người bị giặc giết chết, nhà cửa tan
hoang, đình Hanh Phú cũng bị dốt phá. Những năm kháng chiến chống Mỹ, chính
quyền Mỹ - Ngụy cho phép quân lính tự do oanh kích vào An Phú Đông, Đình Hanh
Phú cũng bị bắn phá thường xuyên.
Chiến
tranh kết thúc, đình Hanh Phú bị đồ nát hoàn toàn. Các vị lão thành cách mạng và nhân dân địa phương đã quyên góp tiên của để xây dựng lại đình
làm nơi thờ phụng và giáo dục thế hệ trẻ về truyện thông yêu nước của cha ông.
Hàng năm, vào ngày 15 tháng 2 âm lịch, đình tô
chức lễ Kỳ Yên. Đây là lễ hội lớn nhất
trong năm. Ngoài ra, trong năm còn có các lễ cúng tế lớn khác là Lễ Răm
tháng Giêng, tết Đoan Ngọ, Lễ Vụ Lan, Rằm tháng 10.
4. CHÙA KHÁNH AN
(Di tích lịch sự văn hóa cấp Thành Phố)

Khoảng cuối thể ký XIX ở
Nam Kỷ có nhiều tổ chức bí mật chống thực dân Pháp có tên gọi là "Hội
kín”, *Thiên địa hội”. Ở vùng, An Lộc Đông có Thượng tọa Thích Trí Hiền (thể
danh Lê Văn Phận) cũng tham gia vào tô chức này. Thượng tọa được ông Biện Lục
hiến tạng một thửa dất khoảng 80 sào (gân 4 ha) dễ xây dựng chùa Khánh An. Vị
vậy nhân dân địa phương thường gọi chùa Khánh An là “chùa thầy Phận” hay '*chùa
thầy Năm Phận".
Ngày 15/12/1945, Tỉnh ủy
Gia Định quyết định xây dựng các đơn vị bộ đội tập trung tại Gò Vấp, Thủ Đức,
Dĩ An. Các lực lượng chiến đầu được phân thành: Vệ quốc đoàn, Tự vệ chiến đấu
và Dân quân tự vệ. tính đến đầu năm 1946 trên địa bàn tỉnh Gia Định đã thành
lập được 2 đơn vị Vệ quốc đoàn là Chi đội 6 và Chi đội 12. Từ tháng 1 đến tháng
4 năm 1947, chùa Khánh An trở thành trường đào tạo cán bộ chỉ huy của Chi đội
6. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, chùa Khánh An là nơi Tiểu đội 17 Vệ
quốc đoàn tiễn hành sản xuất các loại vũ khí thô sơ như súng mút, mìn ve chai,
lựu đạn... đề phục vụ kháng chiến.
Với ý nghĩa là cơ sở
cách mạng, nơi ghi dẫu nhiều sự kiện quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, chùa Khánh An đã được Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh công nhận là
Di tích lịch sử cấp Thành phố.
5. CHÙA TƯỜNG QUANG
(Di tích lịch sứ văn hóa cấp Thành Phố)

Chùa Tường Quang được khởi
công xây dựng ngày rằm tháng 2 năm Tân Tỵ (tức ngày 12/3/1941), khánh thành
ngày 17 tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1942). Người đứng ra xây dựng và sau này trở
thành vị sư trụ trì đầu tiên của chùa là Hòa thượng Thích Pháp Dõng (thể danh
Trần Quang Luật). Chùa thuộc hệ phái Thiên Thai Thiền Tông Giáo, một hệ phái
Phật giáo có truyền thông yêu nước.
Trong kháng chiến chùa còn là cơ sở của
Tỉnh ủy Gia Định, của Chi bộ xã An Phú Đông.
Sau Khi đất nước thống nhất, các tăng ni
chùa Tường Quang tiếp tục tham gia tích cực trong cuộc chiến tranh bảo vệ biện
giới Tây Nam. Hai vị sư của chùa đã cởi đồ cà sa, lên đường nhập ngũ. Các vị sư
còn ở lại chùa tham gia công tác thủy lợi, tham gia vót chông...
Trải qua hai cuộc kháng chiên chồng Pháp
và chồng Mỹ, các tăng ni chùa Tường Quang, đặc biệt là thấy trụ trí Thích Pháp
Đồng đã nổi tiếp truyền thông yêu nước, nối tiếp tinh thần nhập thế tích cực
của Phật piáo Việt Nam như nhà sư Thiện Chiếu đã từng viết:
“Phật giáo là nhập thê, không phải xuất
thể
Từ Bi có lúc phái sát sinh dê cứu độ chúng
sinh”
Hiện nay, chùa Tường Quang mở lớp dạy chữ
Hán cô vào các ngày chủ nhật, mở các lớp học hè cho trẻ em quanh vùng. Nhà chùa
cũng hướng ứng tích cực các hoạt động cứu trợ, mỗi năm hai lần chùa phần phát
gạo cho người dân nghèo trong vùng,
Năm 2008 và 2009 thầy trụ trì chùa hiện
này là thầy Thích Phước Thiện đã dị cùng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam sang
Đức, Pháp, Thụy Điện, Tiệp Khắc đề vận động quỹ ủng hộ đồng bào miền Trung bị
bão lụt.
6. LỊCH SỬ VÙNG
ĐẤT CHIẾN KHU AN PHÚ ĐÔNG
Như bao làng
nước Việt khác, An Phú Đông - mảnh đất nằm giữa ngã ba sông Sài Gòn – một chiến
khu kiên cường đã ghi dấu ấn vào lịch sử. Hơn một thế kỷ chống quân xâm lược,
kể từ khi nhân dân An Phú Đông tham gia vào các phong trào yêu nước như khởi
nghĩa Phan Công Hớn, các tổ chức hội kín như Thiên Địa Hội, Nam kỳ Khởi nghĩa,…
Tiếp nối là những thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945, quân và dân An
Phú Đông góp phần cùng cả nước làm một cuộc “Rũ bùn đứng dậy sáng loà”. Với vị
trí đặc biệt của mình, ngày 25/12/1945, Uỷ ban kháng chiến Gia Định quyết định
thành lập Chiến khu An Phú Đông, một chiến khu ngay sát trung tâm Sài Gòn.
Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm suốt 30 năm ròng rã, địa bàn An Phú
Đông, Thạnh Lộc, Thạnh Xuân bị trở thành vùng đất tự do bắn phá của địch, đã
chịu đựng không biết bao nhiêu bom cày, đạn xới; biết bao nhiêu nước mắt cho
cảnh con xa mẹ, vợ xa chồng, anh em chia lìa… Nhưng dù bị địch càn quét, chà
đi, xát lại bao nhiêu lần, An Phú Đông vẫn xứng đáng là hậu phương vững chắc,
là bàn đạp để quân và dân ta khống chế địch ngay tại thủ phủ Sài Gòn.
Và rồi ngày
30/4/1945,chiến dịch Hồ Chí Minh toán thắng, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Hoà cùng niềm vui chung của cả nước, nhân dân vùng Chiến khu xưa (An Phú Đông,
Thạnh Xuân, Thạnh Lộc) vui mừng đón ngày độc lập của cả dân tộc, hồ hởi bắt tay
vào khai hoang phục hoá, xây dựng lại quê hương xứ sở.Để tưởng nhớ biết bao
liệt sĩ đã hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ quê hương thân yêu, Đảng bộ quận 12
quyết định cho xây dựng Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ xã anh hùng phường An Phú
Đông. Nhà bia được khánh thành vào ngày 27/7/2005, toạ lạc ở khu đất 2.662 m2,
diện tích nhà bia là 207 m2, nền nhà bia lát gạch thạch anh 400x400, tường xây
gạch ống với tổng kinh phí gần 850 triệu đồng. Hai bên bậc tam cấp có 2 phù
điêu hình rồng uốn lượn dài trên 4m, cao 0,5m. Hai bên lư hương lớn bằng đồng
là hai mặt bia bằng đá granit đen, khắc chữ nhũ vàng tên của 199 liệt sĩ hy
sinh tại vùng đất chiến khu xưa. Nhà bia được cầu trúc với mái hai tầng uốn
cong dựng trên 8 cột tròn đường kính 0,45m, trên mỗi góc mái là phù điêu một
con rồng nhỏ, trên nóc có 4 con rồng chụm vào nhau.
00Nhà bia tưởng niệm xã anh hùng phường An Phú Đông là nơi để lớp lớp con cháu
đến thắp hương tưởng nhớ công lao hy sinh của những chiến sĩ đã ngã xuống để
bảo vệ mảnh đất chiến khu xưa anh dũng, để hôm nay có một An Phú Đông thanh
bình, giàu đẹp.