QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUẬN 12

Thứ hai, 16/5/2022, 16:28
Lượt đọc: 2361

Căn cứ Công văn số 3654/GDĐT – TH ngày 03/11/2020 của Ủy ban nhân dân Quận 12 Về hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục địa phương trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 từ năm học 2020-2021. Thư viện trường Nguyễn Du xin quý thầy cô cùng các bạn học sinh đôi nét về lịch sử hình thành và phát triển của Quận 12, từ đó hiểu và yêu hơn về Quận 12 nơi chúng mình cùng học tập và sinh sống.

 

 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUẬN 12


 

Quận 12  là quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh, nằm ở phía tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận được thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1997, với nhiều địa điểm tham quan như căn cứ Vườn Cau ở Thạnh Lộc, chùa Thiên Vân, chùa Quảng Đức, làng cá sấu, các vườn mai, vườn kiểng... và cũng là địa điểm đặt trung tâm CNTT lớn nhất nước là Công viên Phần Mềm Quang Trung.

Lịch sử hình thành và phát triển của quận gắn liền với lịch sử huyện Hóc Môn kể từ khi mới thành lập cho đến sau ngày giải phóng. Trước năm 1997, quận 12 thuộc địa phận huyện Hóc Môn[2].

Ngày 6 tháng 1 năm 1997, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 03/CP[3], thành lập quận 12 trên cơ sở tách toàn bộ diện tích và dân số 5 xã An Phú Đông, Đông Hưng Thuận, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Thạnh Lộc và một phần hai xã Tân Chánh Hiệp, Trung Mỹ Tây của huyện Hóc Môn. Ngày 23 tháng 11 năm 2006, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 143/2006/NĐ-CP [4] về việc điều chỉnh địa giới hành chính phường, quận; thành lập phường thuộc quận Gò Vấp, quận 12 và quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, thành lập phường Tân Hưng Thuận thuộc quận 12 trên cơ sở điều chỉnh 181,08 ha diện tích tự nhiên và 24.829 nhân khẩu của phường Đông Hưng Thuận.

Quận 12 nằm về phía tây Bắc Thàh phố Hồ Chí Minh, được bao quanh một phần Quốc lộ 1A, quận là ngõ giao thông khá quan trọng của thành phố nối liền với các tỉnh miền Đông Nam Bộ[2]:

         Phía Đông  giáp  thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương  và Quận Thủ Đức  thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

         Phía  Tây giáp Huyện  Hóc Môn và Quận Bình Tân, thuộc  Thành phố Hồ Chí Minh.

         Phía Nam  giáp Quận  Bình Thạnh, Quận  Gò Vấp, Quận  Tân Bình, Quận  Tân Phú và Quận  Bình Tân, thuộc  Thành phố Hồ Chí Minh.

         Phía Bắc giáp Huyện  Hóc Môn, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

Quận 12 có 11 phường trực thuộc [1]: An Phú Đông, Đông Hưng Thuận, Hiệp Thành, Tân Chánh Hiệp, Tân Hưng Thuận, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Thạnh Lộc, Thạnh Xuân, Thới An, Trung Mỹ Tây.

Trong đó phường Tân Chánh Hiệp là trung tâm của quận.

Quận 12 có hệ thống đường bộ với Quốc lộ 22 (nay là đường Trường Chinh), xa lộ vành đai ngoài (nay là Quốc lộ 1A), các Tỉnh lộ 9, 12, 14, 15, 16, hệ thống các hương lộ này khá dày, Quận 12 có cơ sở hạ tầng thuận lợi cho phát triển  kinh tế  xã hội[2]. Đường Trường Chinh, đại lộ nối từ quận Tân Bình, xuyên qua quận 12 đến tận cửa ngõ Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh đã được mở rộng đến 10 làn xe. Rất nhiều trung tâm mua sắm sầm uất, các khu cao ốc, căn hộ cao cấp cũng nhanh chóng hình thành dọc theo đại lộ này làm cho các khu dân cư của quận 12 nhanh chóng hình thành và rộng mở. Nhiều trường đại học mở thêm cơ sở đào tạo, nhiều công ty mở thêm chi nhánh, kho bãi, trạm trung chuyển,... tại khu vực này làm cho bộ mặt của quận 12 nhanh chóng thay đổi sau 15 năm thành lập quận.

Quận 12 còn có sông Sài Gòn bao bọc phía đông, là đường giao thông thủy quan trọng. Trong tương lai, nơi đây sẽ có đường sắt chạy qua. với những thuận lợi đó Quận 12 lợi để bố trí các khu dân cư, khu công nghiệp, thương mại  dịch vụ  du lịch. 

Đến nay, Quận 12 có 6 di tích được công nhận di tích lịch sử, văn hóa cấp TP. Đây là những nơi sinh hoạt, giáo dục truyền thống cách mạng và đây cũng là điểm tham quan của người dân trong và ngoài nước góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về giá trị chân – thiện – mỹ, thể hiện tinh thần nhân văn, dân chủ và khoa học là nền tảng tinh thần vững chắc cho xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.

 

 1.      MIẾU CÂY QUÉO

(Di tích lịch sử văn hóa cấp Thành Phố) 

 

1.  Miễu Cây Quéo được xây dựng cách đây khoảng 100 năm. Đâu thế kỷ XX, tại ấp Cây Quéo thuộc làng Tân Đông Trung, huyện Hóc Môn có một cây Quéo lớn. Dưới tán cây có hai ngôi miếu: một thờ bà Huỳnh Thị Nương và một thờ Ngũ hành. Người dân địa phương gọi chung cả hai ngôi miếu này là Miễu Cây Quéo.Địa điểm Miếu Cây Quéo có những giá trị tiêu biểu như là cơ sở tín ngưỡng dân gian của quần chúng Nhân dân khu vực; nơi thờ cúng các chiến sĩ trận vong trong kháng chiến chống thực dân Pháp tại đồn Thuận Kiều; là địa điểm gắn liền với nhiều sự kiện cách mạng của quần chúng Nhân dân 18 Thôn Vườn Trầu, Nhân dân vùng Gò Vấp, Hóc Môn, Tân Bình dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1930 – 1975. Sự kiện lá cờ búa liềm tung bay trên ngọn Miếu Cây Quéo tháng 10/1930, tháng 11/1940; lá cờ đỏ sao vàng trong Cách mạng Tháng Tám 1945 là sự kiện lịch sử gắn liền địa điểm Miếu Cây Quéo sẽ được lưu truyền mãi mãi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay, Miếu Cây Quéo còn là nơi giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng cho thế hệ trẻ, là địa điểm sinh hoạt văn hóa lành mạnh của quần chúng Nhân dân khu vực.

Trên cơ sở đánh giá tầm quan trọng những sự kiện cách mạng từng diễn ra tại Miếu Cây Quéo, đánh giá ý nghĩa của Miếu trong đời sống tín ngưỡng dân gian của cư dân địa phương. Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 5514/QĐ-UBND ngày 30 tháng 11 năm 2006 của UBND Thành phố về xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh Thành phố. 

 

2. KHU TƯỞNG NIỆM VƯỜN CAU ĐỎ

 

 Vùng đất Vườn Cau Đỏ đã hình thành những căn cứ lõm cách mạng. Vườn Cau Đỏ bao quanh là các xã Nhị Bình, Quới Xuân, Thạnh Lộc, Tân Thới Hiệp và Đông Thạnh. Đây là nơi có nhiều vườn cau, cây trái xum xuê, xưa kia là vùng đất đầm lầy, kênh rạch chằng chịt như mạng nhện, cỏ dại mênh mông, rắn rết, muỗi, đỉa, bò cạp,… nhiều vô tận. Tên gọi Vườn Cau Đỏ ra đời cách đây khá lâu, không ai còn biết chính xác nguồn gốc ra đời của nó. Theo các đồng chí lão thành cách mạng đã từng hoạt động trên địa bàn này, trong chiến tranh ở đây cau mọc thành từng đám nên gọi là “Vườn Cau”, còn màu “đỏ” của địa danh “Vườn Cau Đỏ” không chỉ đơn thuần là màu sắc của thân cau bị ngả màu do tàn phá ác liệt của chiến tranh mà còn mang ý nghĩa là những hy sinh xương máu của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, Nhân dân đã ngã xuống mảnh đất này. Vị trí của Vườn Cau Đỏ ở sát cạnh và bao quanh là các cơ quan quân sự của địch chiếm đóng. Nó được ví như một chiếc túi chứa đựng tất cả những mối liên hệ từ bên ngoài, và là một căn cứ nối liền rừng với thành phố. Mất Vườn Cau Đỏ là mất liên lạc với thành phố. Chính vì vậy, Vườn Cau Đỏ trở thành bàn đạp giữa thành phố và căn cứ. Nơi đây vừa có địa hình thuận lợi về tầm che khuất, giữ được yếu tố bí mật để triển khai đội hình chiến đấu. Đối với ta, Vườn Cau Đỏ trấn giữ một vị trí trung chuyển không thể thay thế trên hướng Tây Bắc Sài Gòn. Từ một “vành đai an ninh” thô sơ ban đầu, về sau Vườn Cau Đỏ phát triển thành một khu “căn cứ lõm”, một mật khu cách mạng, là nơi đứng chân, che giấu lực lượng cách mạng. Căn cứ gồm nhiều “Lõm” khác nhau giàn trải trên một địa bàn rộng, là bàn đạp xuất phát của các lực lượng kháng chiến tấn công vào Sài Gòn trong kháng chiến chống Mỹ.

 

3. ĐÌNH HANH PHÚ

 (Di tích lịch sứ văn hóa cấp Thành Phố)

 

Theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì thôn Hanh Phú được thành lập đầu thể kỷ XIX, thuộc tông Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trần Phiên An. Sau khi thôn Hanh Phú hình thành và ôn định, đình Hanh Phú được xây dựng.

Qua hai cuộc kháng chiến, đình Hanh Phú là chứng cứ tô cáo tội ác của thực dân Pháp và để quốc Mỹ. An Phú Đông, cù lao Hanh Phú nhiều lần bị quân Pháp bao vậy, càn quét, hàng ngàn người bị giặc giết chết, nhà cửa tan hoang, đình Hanh Phú cũng bị dốt phá. Những năm kháng chiến chống Mỹ, chính quyền Mỹ - Ngụy cho phép quân lính tự do oanh kích vào An Phú Đông, Đình Hanh Phú cũng bị bắn phá thường xuyên.

Chiến tranh kết thúc, đình Hanh Phú bị đồ nát hoàn toàn. Các vị lão thành cách mạng và nhân dân địa phương đã quyên góp tiên của để xây dựng lại đình làm nơi thờ phụng và giáo dục thế hệ trẻ về truyện thông yêu nước của cha ông. Hàng năm, vào ngày 15 tháng 2 âm lịch, đình tô chức lễ Kỳ Yên. Đây là lễ hội lớn nhất trong năm. Ngoài ra, trong năm còn có các lễ cúng tế lớn khác là Lễ Răm tháng Giêng, tết Đoan Ngọ, Lễ Vụ Lan, Rằm tháng 10.

 

 4. CHÙA KHÁNH AN

 (Di tích lịch sự văn hóa cấp Thành Phố)

 

Khoảng cuối thể ký XIX ở Nam Kỷ có nhiều tổ chức bí mật chống thực dân Pháp có tên gọi là "Hội kín”, *Thiên địa hội”. Ở vùng, An Lộc Đông có Thượng tọa Thích Trí Hiền (thể danh Lê Văn Phận) cũng tham gia vào tô chức này. Thượng tọa được ông Biện Lục hiến tạng một thửa dất khoảng 80 sào (gân 4 ha) dễ xây dựng chùa Khánh An. Vị vậy nhân dân địa phương thường gọi chùa Khánh An là “chùa thầy Phận” hay '*chùa thầy Năm Phận".

 

Ngày 15/12/1945, Tỉnh ủy Gia Định quyết định xây dựng các đơn vị bộ đội tập trung tại Gò Vấp, Thủ Đức, Dĩ An. Các lực lượng chiến đầu được phân thành: Vệ quốc đoàn, Tự vệ chiến đấu và Dân quân tự vệ. tính đến đầu năm 1946 trên địa bàn tỉnh Gia Định đã thành lập được 2 đơn vị Vệ quốc đoàn là Chi đội 6 và Chi đội 12. Từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1947, chùa Khánh An trở thành trường đào tạo cán bộ chỉ huy của Chi đội 6. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, chùa Khánh An là nơi Tiểu đội 17 Vệ quốc đoàn tiễn hành sản xuất các loại vũ khí thô sơ như súng mút, mìn ve chai, lựu đạn... đề phục vụ kháng chiến.

Với ý nghĩa là cơ sở cách mạng, nơi ghi dẫu nhiều sự kiện quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa Khánh An đã được Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh công nhận là Di tích lịch sử cấp Thành phố.

 

5. CHÙA TƯỜNG QUANG

 (Di tích lịch sứ văn hóa cấp Thành Phố)

Chùa Tường Quang được khởi công xây dựng ngày rằm tháng 2 năm Tân Tỵ (tức ngày 12/3/1941), khánh thành ngày 17 tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1942). Người đứng ra xây dựng và sau này trở thành vị sư trụ trì đầu tiên của chùa là Hòa thượng Thích Pháp Dõng (thể danh Trần Quang Luật). Chùa thuộc hệ phái Thiên Thai Thiền Tông Giáo, một hệ phái Phật giáo có truyền thông yêu nước.

Trong kháng chiến chùa còn là cơ sở của Tỉnh ủy Gia Định, của Chi bộ xã An Phú Đông.

Sau Khi đất nước thống nhất, các tăng ni chùa Tường Quang tiếp tục tham gia tích cực trong cuộc chiến tranh bảo vệ biện giới Tây Nam. Hai vị sư của chùa đã cởi đồ cà sa, lên đường nhập ngũ. Các vị sư còn ở lại chùa tham gia công tác thủy lợi, tham gia vót chông...

Trải qua hai cuộc kháng chiên chồng Pháp và chồng Mỹ, các tăng ni chùa Tường Quang, đặc biệt là thấy trụ trí Thích Pháp Đồng đã nổi tiếp truyền thông yêu nước, nối tiếp tinh thần nhập thế tích cực của Phật piáo Việt Nam như nhà sư Thiện Chiếu đã từng viết:

“Phật giáo là nhập thê, không phải xuất thể

Từ Bi có lúc phái sát sinh dê cứu độ chúng sinh”

Hiện nay, chùa Tường Quang mở lớp dạy chữ Hán cô vào các ngày chủ nhật, mở các lớp học hè cho trẻ em quanh vùng. Nhà chùa cũng hướng ứng tích cực các hoạt động cứu trợ, mỗi năm hai lần chùa phần phát gạo cho người dân nghèo trong vùng, 

Năm 2008 và 2009 thầy trụ trì chùa hiện này là thầy Thích Phước Thiện đã dị cùng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam sang Đức, Pháp, Thụy Điện, Tiệp Khắc đề vận động quỹ ủng hộ đồng bào miền Trung bị bão lụt.

 

6. LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT CHIẾN KHU AN PHÚ ĐÔNG

 

Như bao làng nước Việt khác, An Phú Đông - mảnh đất nằm giữa ngã ba sông Sài Gòn – một chiến khu kiên cường đã ghi dấu ấn vào lịch sử. Hơn một thế kỷ chống quân xâm lược, kể từ khi nhân dân An Phú Đông tham gia vào các phong trào yêu nước như khởi nghĩa Phan Công Hớn, các tổ chức hội kín như Thiên Địa Hội, Nam kỳ Khởi nghĩa,… Tiếp nối là những thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945, quân và dân An Phú Đông góp phần cùng cả nước làm một cuộc “Rũ bùn đứng dậy sáng loà”. Với vị trí đặc biệt của mình, ngày 25/12/1945, Uỷ ban kháng chiến Gia Định quyết định thành lập Chiến khu An Phú Đông, một chiến khu ngay sát trung tâm Sài Gòn. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm suốt 30 năm ròng rã, địa bàn An Phú Đông, Thạnh Lộc, Thạnh Xuân bị trở thành vùng đất tự do bắn phá của địch, đã chịu đựng không biết bao nhiêu bom cày, đạn xới; biết bao nhiêu nước mắt cho cảnh con xa mẹ, vợ xa chồng, anh em chia lìa… Nhưng dù bị địch càn quét, chà đi, xát lại bao nhiêu lần, An Phú Đông vẫn xứng đáng là hậu phương vững chắc, là bàn đạp để quân và dân ta khống chế địch ngay tại thủ phủ Sài Gòn.

Và rồi ngày 30/4/1945,chiến dịch Hồ Chí Minh toán thắng, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Hoà cùng niềm vui chung của cả nước, nhân dân vùng Chiến khu xưa (An Phú Đông, Thạnh Xuân, Thạnh Lộc) vui mừng đón ngày độc lập của cả dân tộc, hồ hởi bắt tay vào khai hoang phục hoá, xây dựng lại quê hương xứ sở.Để tưởng nhớ biết bao liệt sĩ đã hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ quê hương thân yêu, Đảng bộ quận 12 quyết định cho xây dựng Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ xã anh hùng phường An Phú Đông. Nhà bia được khánh thành vào ngày 27/7/2005, toạ lạc ở khu đất 2.662 m2, diện tích nhà bia là 207 m2, nền nhà bia lát gạch thạch anh 400x400, tường xây gạch ống với tổng kinh phí gần 850 triệu đồng. Hai bên bậc tam cấp có 2 phù điêu hình rồng uốn lượn dài trên 4m, cao 0,5m. Hai bên lư hương lớn bằng đồng là hai mặt bia bằng đá granit đen, khắc chữ nhũ vàng tên của 199 liệt sĩ hy sinh tại vùng đất chiến khu xưa. Nhà bia được cầu trúc với mái hai tầng uốn cong dựng trên 8 cột tròn đường kính 0,45m, trên mỗi góc mái là phù điêu một con rồng nhỏ, trên nóc có 4 con rồng chụm vào nhau.
00Nhà bia tưởng niệm xã anh hùng phường An Phú Đông là nơi để lớp lớp con cháu đến thắp hương tưởng nhớ công lao hy sinh của những chiến sĩ đã ngã xuống để bảo vệ mảnh đất chiến khu xưa anh dũng, để hôm nay có một An Phú Đông thanh bình, giàu đẹp.

Tin cùng chuyên mục

A36 bis1, Kp1 , Nguyễn Văn Quá, Phường Đông Hưng Thuận, Q12

Điện thoại: 028 3891 1424 Email: nguyenducsc@gmail.com

Website:thnguyendu.hcm.edu.vn

Tập đoàn công nghệ Quảng Ích